Tin và hiểu, đức tin và chân lý, đây là nội dung được nhấn mạnh và triển khai trong chương hai, cũng là vấn đề cần được quan tâm trong thế giới ngày nay do cuộc khủng hoảng về chân lý. Ngày nay dường như người ta chỉ nhìn nhận chân lý duy nhất là chân lý kỹ thuật: chân lý là cái gì đem lại sự thoải mái tiện nghi cho đời sống. Người ta quan tâm đến những chân lý chủ quan của mỗi cá nhân, còn chính Chân Lý (viết hoa) thì bị lãng quên. Hậu quả là rơi vào chủ nghĩa tương đối, trong đó câu hỏi về chân lý phổ quát, chân lý về Thiên Chúa, bị loại trừ (số 25). Vậy đức tin Kitô giáo có thể cung cấp nẻo đường đúng đắn dẫn đến chân lý không?
Khởi đi từ việc phân tích từ ngữ trong Isaia 7,9 ở hai bản văn Hipri và Hy Lạp, thông điệp khẳng định: không có nhận thức và chân lý, chúng ta không thể đứng vững và đi tới. Đức tin không có chân lý thì không thể cứu độ, không thể cung cấp nền tảng vững chắc (số 24). Nhưng trong hành vi đức tin có một loại nhận thức là nhận thức của con tim. Trái tim là tâm điểm của con người, nơi chúng ta mở ra đón nhận chân lý và tình yêu, và để cho mình được biến đổi cách sâu xa. Sự hiểu biết của đức tin phát sinh khi chúng ta đón nhận tình yêu vô biên của Thiên Chúa, tình yêu biến đổi chúng ta từ bên trong và làm cho ta nhìn thực tại bằng cặp mắt mới (số 26). Nói đến tình yêu, cần khẳng định rằng tình yêu không chỉ là cảm xúc chóng qua nhưng tình yêu gắn với chân lý. Nếu không gắn với chân lý, tình yêu chỉ còn là cảm xúc và không đứng vững nổi trước thử thách của thời gian. Không có chân lý, tình yêu không thể thiết lập mối quan hệ vững bền, không thể giải thoát chúng ta khỏi cái tôi ích kỷ, không thể ban tặng sự sống và hoa trái. Ngược lại, chân lý cần đến tình yêu. Không có tình yêu, chân lý trở thành khô khan, vô ngã và nặng nề (số 27). Đức tin Kitô giáo bao hàm cả tình yêu và chân lý. Tin là tin vào Đấng Thiên Chúa trung tín (trong Kinh Thánh, chân lý và trung tín đi đôi với nhau) với giao ước tình yêu Ngài đã ký kết (số 28).
Ngôn ngữ Kinh Thánh, cách riêng Tin Mừng Gioan, diễn tả đức tin bằng hai động từ: nghe và thấy. Tin là nghe tiếng gọi của một Đấng và bước vào mối quan hệ với Ngài, đồng thời đức tin mở mắt chúng ta để “thấy” mọi sự trong ánh sáng mới. Sự kết hợp giữa nghe và thấy được thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Giêsu, Đấng chúng ta nghe và thấy được, Đấng là “Ngôi Lời đã làm người… và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người” (Ga 1,14). Nơi Người, chân lý không còn là chân lý trừu tượng nhưng hóa thành nhục thể mà chúng ta nghe, thấy, và hơn nữa, sờ được! (số 30,31).
Từ đó, các Kitô hữu hiểu được tầm quan trọng của cuộc đối thoại và mối quan hệ giữa đức tin và lý trí (số 32-34). Ngày nay chân lý thường bị giảm thiểu thành khẳng định chủ quan của mỗi cá nhân. Thế nhưng nếu chân lý thật sự là chân lý của tình yêu, thì chân lý ấy phải giải thoát chúng ta khỏi vòng vây của sự ích kỷ cá nhân và hướng đến ích chung; đồng thời có thể thấm nhập cõi lòng sâu xa nơi mỗi con người. Niềm tin vào chân lý ấy soi sáng mọi thực tại đời sống, do đó đức tin không loại trừ khoa học nhưng đem lại lợi ích cho khoa học: đức tin thúc đẩy nhà khoa học mở ra trước thực tại vô cùng phong phú, ngăn cản thái độ tự mãn trong khoa học để không ngừng khám phá huyền nhiệm sâu xa của tạo thành.
Ánh sáng đức tin cũng soi chiếu con đường của tất cả những ai đang thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, do đó góp phần tích cực vào cuộc đối thoại giữa các tôn giáo (số 35). Thiên Chúa là ánh sáng và những ai thành tâm tìm kiếm sẽ gặp được Ngài. Hình ảnh ba đạo sĩ trong Tin Mừng Matthêu diễn tả con người tôn giáo là người đang trên đường đi, sẵn sàng ra khỏi bản thân để tìm kiếm Đấng Thiên Chúa của những bất ngờ. Với các Kitô hữu, trọn vẹn ánh sáng của Thiên Chúa được tập trung nơi Đức Kitô, do đó người Kitô hữu càng đón nhận ánh sáng Đức Kitô thì họ càng có khả năng hiểu biết và đồng hành với những ai đang tìm kiếm Chúa. Trong số đó có cả những người tuy không thuộc tôn giáo nào nhưng vẫn khao khát tin và tiếp tục kiếm tìm. Nếu họ chân thành mở ra với tình yêu và lên đường bước theo ánh sáng, thì họ đã ở trên đường dẫn đến đức tin rồi, dù không nhận biết.
Trong sự tìm kiếm Thiên Chúa, thần học đóng vai trò quan trọng vì thần học không ngừng đào sâu hiểu biết về Thiên Chúa (số 36). Tuy nhiên, không thể làm thần học mà không có đức tin, bởi lẽ thần học là một thành phần của chính tiến trình đức tin. Thiên Chúa không chỉ là một đối tượng để nghiên cứu nhưng là Đấng tỏ mình ra trong một tương quan liên vị. Vì thế thần học phải khiêm tốn để cho Thiên Chúa chạm đến, nhìn nhận những giới hạn của mình trước mầu nhiệm, đồng thời cố gắng tìm hiểu mầu nhiệm ấy bằng phương pháp riêng của lý trí. Thần học cũng mang chiều kích Giáo hội, do đó một đàng thần học phải phục vụ đức tin của các tín hữu, đàng khác phải nhìn nhận Huấn quyền như thành tố thiết yếu trong suy tư và nghiên cứu của mình.