CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ
Thứ Sáu, ngày 23/05/2014
PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI
1. KHAI MẠC
(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)
1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần
Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.
ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.
2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
2. TIN MỪNG
(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)
Tin Mừng: Ga 15,12-17
12 Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.13 Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.14 Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
16 Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em.17 Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
3. SUY NIỆM
“Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15,15).
Như Mẹ: Trong xã giao hằng ngày, chúng ta có rất nhiều bạn bè. Nhưng tình bạn ấy đôi khi bị thế gian lừa lọc, gian dối. Trong thế gian đầy giả dối và bất công, người ta sẵn sàng phản bội nhau, chà đạp lên tình bạn để kiếm lợi cho mình. Nhiều lúc, chúng ta không còn biết tin vào ai, và chúng ta thường có những hoài nghi: không biết bạn này có đáng tin cậy không?
Với Mẹ: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là người bạn trung thành của chúng con. Chúng con thật vui sướng vì được Chúa gọi là bạn hữu, được Chúa cho biết tất cả những gì mà Chúa nghe được từ Chúa Cha. Xin cho chúng con biết trân trọng tình bạn mà Chúa đã dành cho chúng con.
Nhờ Mẹ: Mẹ ơi! Xin Mẹ giúp chúng con cố gắng để giữ cho tình bạn với Chúa luôn được bền chặt mãi mãi.
4. LẦN HẠT MÂN CÔI
(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)
5. KẾT THÚC
(hát hoặc đọc)
1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa
ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.
1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.
2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.
3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.
2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.
Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA
BÀI 45: TẠI CANA
ĐỨC MARIA GIỤC CHÚA GIÊSU THỰC HIỆN PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN
Tại Cana, do lòng trắc ẩn Đức Maria đã xin Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên. Đối lại, Đức Maria được Chúa mời gọi hãy cộng tác như “người nữ” vào công trình cứu độ. Các giáo phụ còn giải thích trình thuật về tiệc cưới Cana theo nhiều nghĩa biểu tượng khác nữa: sự chuyển tiếp từ nước thanh tẩy của Cựu ước sang rượu của Tân ước; tiệc cưới của Giao ước vĩnh viễn; rượu của Bí tích Thánh thể.
1.- Khi kể lại sự hiện diện của Đức Maria trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, công đồng Vaticanô II đã nhắc tới sự tham gia của Người tại Cana nhân dịp phép lạ đầu tiên: “Tại tiệc cưới ở Cana Galilêa, Đức Maria động lòng trắc ẩn, đã van nài xin Đức Giêsu Đấng Mêsia, bắt đầu các phép lạ(xc. Ga 2,1-11)” (HT 58).
Theo gót thánh sử Gioan, Công đồng ghi nhận vai trò kín đáo nhưng lại hữu hiệu của Đức Mẹ, Đấng đã thúc giục Đức Kitô thực hiện “phép lạ đầu tiên” do lời khẩn nài của mình.
Tuy chỉ gây được ảnh hưởng kín đáo của bà mẹ, nhưng cuối cùng, sự hiện diện của bà đã đưa tới hiệu quả quyết định. Sáng kiến của Đức Trinh nữ Maria lại còn đáng kinh ngạc hơn nữa nếu chúng ta nhớ tới điều kiện thấp bé của người phụ nữ trong xã hội Do thái.
Thực vây, tại Cana, Đức Giêsu không những nhìn nhận phẩm giá và vai trò của tài năng người phụ nữ, nhưng khi đón nhận sự can thiêp của người Mẹ, Đức Giêsu đã mở ra cho bà một cơ hội tham dự vào công trình của Đấng Mêsia. Việc gọi Đức Maria là “người nữ ơi” không đi ngược lại ý tưởng vừa nói. Thực vậy lời “người (phụ) nữ” không bao hàm một ý nghĩa tiêu cực nào, và sẽ còn được Đức Giêsu sử dụng khi ngỏ lời với Đức Maria dưới chân Thập giá(xc. Ga 19, 26)[1]. Theo một vài nhà chú giải, danh hiệu “Người Nữ”[2] trình bày Đức Maria như là bà Evà mới, mẹ của tất cả những người tin.
Trong đoạn văn trích dẫn trên đây, công đồng Vaticanô II đã nói rằng “Đức Maria động lòng trắc ẩn”, muốn cho thấy rằng Người đã được thúc đẩy bởi con tim nhân từ của mình. Khi nhìn thấy cảnh bối rối của đôi tân hôn và của khách vì thiếu rượu, Đức Maria động lòng xót thương đã gợi cho Đức Giêsu can thiệp bằng quyền năng Mêsia của mình.
Đối với một vài người, lời xin của Đức Maria xem ra quá đáng, bởi vì nó đặt việc khai mào các phép lạ phải lê thuộc vào một hành vi trắc ẩn. Đức Giêsu đã trả lời cho vấn nạn đó khi Người đã thỏa thuận làm theo lời yêu cầu của Đức Mẹ; Người chứng tỏ cho thấy Chúa đã đáp lại những ước mong của nhân loại một cách dồi dào, và đồng thời cũng cho thấy tình yêu của một người mẹ có thể có hiệu lực đến đâu.
2.- Sự sử dụng từ ngữ “khởi đầu cho các phép lạ” trong bản văn của Công đồng, dựa trên thánh sử Gioan, đáng cho chúng ta lưu ý. Hạn từ trong tiếng Hy lạp Arkhe, được dịch là “bắt đầu” hay là “khởi nguyên”, đã được thánh Gioan dùng ở trong Lời tựa của Phúc âm: “Lúc khởi nguyên đã có Ngôi Lời”(1, 1). Sự trùng hợp đầy ý nghĩa này dẫn cho phép chúng ta thiết lập một sự song song giữa khởi nguyên của việc tỏ bày vinh quang của Đức Kitô vào hồi nguyên thủy và của việc bày tỏ vinh quang của Người trong sứ vụ trần thế.
Khi làm nêu bật sáng kiến của Đức Maria trong phép lạ đầu tiên và khi nói tới sự hiện diện của Người trên núi Calvariô dưới chân Thập giá, thánh sử giúp cho chúng ta thấy rằng sự hợp tác của Đức Maria kéo dài ra suốt sự nghiệp của Đức Kitô. Lời yêu cầu của Đức Maria nằm trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Trong phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu, các Giáo phụ đã nhìn thấy một chiều kích biểu tượng, khi nhận ra trong việc đổi nước thành rượu, sự loan báo việc chuyển tiếp từ Cựu ước sang Tân ước. Tại Cana, nước ở các chum dùng vào việc thanh tẩy của người Do thái và việc chu toàn những lề luật Môisen( x. Mc 7, 15), trở thành rượu mới của một tiệc cưới, biểu tượng của sự kết hợp vĩnh viễn giữa Thiên Chúa và con người.
3.- Khung cảnh của tiệc cưới, được Đức Giêsu chọn lựa để thực hành phép lạ đầu tiên, quy hướng tới biểu tượng hôn nhân, thường được Cựu ước sử dụng để ám chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với Dân Người (xc. Hs 2, 21; Gr 2, 1-8; Tv 44; vv) và trong Tân ước để ám chỉ sự kết hợp của Đức Kitô với Hội thánh (xc. Ga 3, 28-30; Ep 5, 25-32; Kh 21, 1-2; vv).
Sự hiện diện của Đức Giêsu tại Cana còn bày tỏ ý định cứu chuộc của Thiên Chúa đối với hôn nhân. Trong khung cảnh này, sự thiếu rượu có thể được giải thích theo nghĩa là gợi lên việc thiếu tình yêu, thường đe dọa sự hòa thuận vợ chồng. Đức Maria xin Chúa Giêsu can thiệp nhằm giúp đỡ cho tất cả mọi đôi hôn nhân, mà chỉ duy một tình yêu đặt nơi Thiên Chúa mới có thể giải quyết được những mối nguy của sự bất trung, hiểu lầm, chia rẽ. Ân sủng của bí tích mang lại cho các đôi hôn nhân một sức mạnh của tình yêu, để có thể củng cố lòng quyết tâm chung thủy kể cả trong những hoàn cảnh khó khăn
Ngoài ra theo sự giải thích của một số tác giả khác, phép lạ Cana cũng hàm chứa ý nghĩa về bí tích Thánh thể. Khi làm phép lạ này – cũng như phép lạ tăng bánh (xc. Ga 6, 4)- vào lúc gần đại lễ Vượt qua của người Do thái (xc. Ga 2, 13), Đức Giêsu bày tỏ ý định chuẩn bị cho một bữa tiệc Vượt qua, đó là bí tích Thánh thể.
Sự móc nối bữa tiệc Cana với ý nghĩa Thánh thể còn có thể được giải thích qua sự hiện diện của rượu, hình bóng của máu Giao ước mới và trong khung cảnh của một bữa tiệc.
Do đó, Đức Maria, sau khi là nguồn gốc của sự hiện diện của Đức Giêsu tại tiệc cưới, đã xin được phép lạ của rượu mới, tượng trưng cho bí tích Thánh thể, dấu hiệu cao cả của sự hiện diện của Con mình ở giữa các môn đệ sau khi sống lại.
4.- Kết thúc trình thuật về phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu, được thực hiện do lòng tin sắt đá của Thân mẫu của Chúa, thánh sử Gioan kết luận rằng: “các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Tại Cana Đức Maria đã khởi đầu con đường đức tin của Hội thánh, đi trước các môn đệ và lôi kéo sự chú ý của các môn đệ về với Đức Kitô.
Lời chuyển cầu không ngừng của Đức Maria khuyến khích tất cả những ai phải gặp cảm nghiệm của sự “thiếu vắng Thiên Chúa”. Họ được mời gọi hãy trông cậy dù không còn gì để trông cậy[3], luôn luôn đặt tin tưởng vào lòng lân tuất của Chúa.
BÀI 46: MẸ MARIA
TRONG CUỘC ĐỜI CÔNG KHAI CỦA ĐỨC GIÊSU
Trong suốt thời kỳ Chúa Giêsu thi hành sứ vụ, Đức Maria theo dõi cách lặng lẽ những hoạt động của Con mình, nghiền gẫm những lời giảng của Chúa, và chia sẻ sự đau khổ của Chúa vì bị nhiều người khước từ.
1.- Sau khi đã nhắc tới sự can thiệp của Đức Maria tại tiệc cưới Cana, công đồng Vaticanô II đã diễn tả việc Người tham dự vào cuộc đời công khai của Đức Giêsu như sau: “Trong thời gian Đức Kitô đi rao giảng, Mẹ Maria đã đón nhận những lời mà Chúa Con đã đề cao Nước Thiên Chúa lên trên những mối tương quan và ràng buộc ruột thịt, những lời công bố chân phúc của những người lắng nghe và tuân giữ lời của Chúa (xc. Mc 3,35 và ss.; Lc 11, 27-28) và Mẹ đã trung thành thực hiện điều đó (x. Lc 2, 19.51)” (HT 58).
Việc khai mào sứ vụ của Đức Giêsu cũng đánh dấu việc cách ly khỏi Mẹ mình. Đức Maria đã không luôn luôn đi theo Con trong cuôc lữ hành trải qua những chặng đường Palestina. Đức Giêsu đã tự ý chọn lựa sự cách ly khỏi Mẹ mình và khỏi những cảm tình của gia đình, như Người đã nói rõ về những điều kiện đặt ra cho các môn đệ để đi theo Người và dấn thân rao truyền Nước Chúa.
Tuy vậy, đôi khi Đức Maria cũng đã lắng nghe lời giảng của Con mình. Chúng ta có thể giả thiết rằng Mẹ đã hiên diện tại Hội đường Nazaret, khi Đức Giêsu đọc những lời của ngôn sứ Isaia, chú giải đoạn văn và áp dụng cho mình nội dung của nó (xc. Lc 4,18- 30). Đức Maria hẳn đã phải đau khổ rất nhiều vào lúc đó, bởi vì sau khi đã chia sẻ sự thán phục của mọi người vì những lời duyên dáng phát sinh từ miệng Người (Lc 4, 22), Mẹ đã nhận thấy sự chống đối của đồng bào xua đuổi Đức Giêsu ra khỏi Hội đường và thậm chí đã âm mưu giết Người! Những lời của thánh sử Luca cho thấy tình cảnh thật gay cấn: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, họ kéo Người lên tận đỉnh núi cao để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (4, 29-30).
Sau biến cố này, Đức Maria, linh cảm về những thử thách khác sẽ xảy tới, đã khẳng định và đào sâu lòng gắn bó với ý định của Chúa Cha, dâng cho Ngài sự đau khổ của một người mẹ và sự cô đơn của mình.
2.- Theo các Phúc âm, Đức Maria đã có dịp lắng nghe Con của mình vào những hoàn cảnh khác nữa. Trước hết là tại Capharnaum, nơi mà Đức Giêsu, sau tiệc cưới Cana, đã tới “cùng với mẹ mình, các anh em và các môn đệ” (Ga 2,12). Ngoài ra, có lẽ Mẹ Maria cũng gặp Đức Giêsu tại Giêrusalem nhân dịp lễ Vượt qua, trong Đền thờ mà Đức Giêsu đã gọi là nhà của Cha mình và Người đã bộc lộ lòng nhiệt thành (xc. Ga 2,16-17). Rồi Người cũng có mặt trong đám đông, khi mà không thể đến gần Đức Giêsu được, Người nghe Chúa trả lời cho kẻ loan báo sự hiện diện của Người và của họ hàng như sau: “mẹ Ta và anh em của Ta là những người lắng nghe Lời của Chúa và đem ra thực hành”(Lc 8, 21).
Tuy coi nhẹ những mối tương quan gia đình, nhưng kỳ thực Đức Kitô đã tỏ lòng ca ngợi Đức Mẹ, khẳng định một mối dây liên lạc cao sâu hơn với Người. Thực vậy, Đức Maria, trong tư cách lắng nghe Con của mình, đã đón nhân tất cả những lời của Chúa và trung thành đem ra thực hành.
Chúng ta có thể hình dung rằng, tuy Mẹ Maria không đi theo sát Đức Giêsu trong cuộc hành trình truyền giáo, nhưng luôn được thông tin về diễn biến các hoạt động tông đồ của Con mình, thu nhận cách ưu ái và hồi hộp các tin tức về những bài giảng của Con mình do những kẻ đã gặp Người thuật lại.
Sự cách ly không có nghĩa là xa biệt về tâm trí, cũng như sự cách ly không ngăn cản bà mẹ theo dõi Con bằng tinh thần, bằng việc lưu giữ và suy niệm lời giáo huấn của Con như trước đây Người đã thi hành trong giai đoạn ẩn dật tại Nazarét. Thực vậy đức tin đã cho phép Người tìm thấy ý nghĩa của những lời của Chúa Giêsu trước cả các môn đệ và còn hơn họ nhiều, bởi vì những ông này thường không hiểu hết những lời giáo huấn của Chúa và đặc biệt những đoạn loan báo cuộc Tử nạn tương lai (xc. Mt 16, 21-23; Mc 9, 32; Lc 9, 45).
3.- Đức Maria, khi theo dõi từ xa những sự cố xảy tới cho Con mình, đã tham dự vào mối bi kịch của Con mình bị phần lớn dân Do thái khước từ. Sự khước từ này được biểu lộ khi Đức Giêsu trở về làng Nazaret, và càng ngày càng bộc lộ rõ ràng hơn qua những lời nói cũng như cử chỉ của các nhà thủ lãnh.
Đức Trinh nữ thường biết được những lời chỉ trích, sỉ nhục và đe dọa dành cho Đức Giêsu. Ngay tại Nazaret, tâm hồn của Mẹ nhiều lần đã phải xót xa vì sự cứng lòng tin của những bà con thân thuộc: họ muốn cưỡng bách Đức Giêsu phải theo dụng ý của họ (xc. Ga 7, 2-5) hay là họ muốn làm gián đoạn sứ mạng của Người (xc. Mc 3,21).
Chính qua những sự đau khổ chịu đựng trong âm thầm, Đức Maria đã chia sẻ hành trình của Con mình “hướng về Giêrusalem”(Lc 9, 51), và cộng tác với Con mình vào công cuộc cứu chuộc, qua sự kết hiệp càng ngày càng chặt chẽ bằng đức tin, đức cậy và đức mến.
4.- Như vậy, Đức Trinh nữ Maria trở thành một gương mẫu cho tất cả những người đón nhận lời của Đức Kitô. Ngay từ lúc Truyền tin, Đức Maria đã đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa và hoàn toàn gắn bó với bản thân của Đức Kitô. Mẹ Maria dạy cho chúng ta hãy biết lắng nghe một cách tin tưởng vào Chúa Cứu thế, và nhận ra nơi Người Lời của Chúa có khả năng thay đổi và canh tân cuôc đời chúng ta. Kinh nghiệm của Đức Maria khuyến khích chúng ta chấp nhận những đau khổ thử thách do việc trung thành với Chúa Kitô, và luôn luôn nhớ tới chân phúc mà Đức Giêsu đã hứa cho những kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời của Chúa.
[1] xc. bài 49 dưới đây.
[2] “Người Nữ” hay “Người Phụ nữ”, “Người Đàn bà”.
[3] xc. Rm 4,18.