Sơ Lêôni, 66 tuổi, vừa trở lại Canađa sau 36 năm truyền giáo tại nước Tuynidi (Bắc Phi). Thể theo nguyện vọng của Sơ, Bề trên đã cử Sơ về thành phố Quê-Bếc, nơi Sơ có thể đi lại thăm nom người chị cả đã 86 tuổi, sống độc thân trong một căn hộ nhỏ.
Gia đình Sơ Lêôni được cả thảy 6 anh chị em. Ngoài người chị cả này và hai người anh là tu sĩ Dòng Tên, Sơ còn hai người anh bại liệt, không thể tự lo liệu cho bản thân. Chính vì thế mà chị cả của Sơ đã hy sinh không lập gia đình riêng, nhưng chọn cuộc sống độc thân để phụng dưỡng cha mẹ già và chăm sóc hai người em tật nguyền cho đến lúc họ qua đời. Hơn nữa, người chị cả đã chọn con đường như thế để ba người em đi tu được yên tâm phục vụ Giáo Hội hơn. Sơ Lêôni nhớ lại năm 1960, khi Sơ vừa khấn trọn đời, thì nhà dòng sai đi truyền giáo ở Tuynidi. Một trong hai người anh linh mục của Sơ lúc đó cũng đang truyền giáo tại Ðảo quốc Haiti. Cũng như một số người Ả Rập cực đoan theo Hồi giáo trong vùng, chính quyền Tuynidi chỉ cho phép các thừa sai ngoại quốc đến mở các công cuộc từ thiện, chứ không được trực tiếp truyền giảng Tin Mừng. Thế nên cộng đoàn của Sơ Lêôni đã đến sống tại một khu phố nghèo, mở một thư viện cộng đồng cho dân chúng đến đọc sách và những lớp học tình thương dạy chữ cho các trẻ em nghèo thất học. Dù phải vất vả học tiếng Ả Rập, lại không có được thiện cảm của chính quyền địa phương cũng như của các thành phần Hồi giáo quá khích, các sơ vẫn hết lòng yêu mến người Tuynidi và phục vụ đất nước của họ. Vào năm 1991, khi Mỹ và Phương Tây mở cuộc chiến tranh Vùng Vịnh để trừng phạt Irắc đã xâm lăng một lân quốc nhỏ, các sứ quán Phương Tây tại các nước Ả Rập đã khuyên các kiều dân của họ tại các nước ấy nên đến tá túc tại các cơ quan ngoại giao để tránh bị bắt làm con tin hoặc bị sát hại (cắt cổ) bởi những phần tử cực đoan muốn trả đũa Phương Tây. Thế nhưng các Sơ vẫn chọn ở lại trong khu phố, sẵn sàng chết như đã sống hết mình cho dân tộc Tuynidi. Ba mươi sáu năm trời trôi qua thật mau, thật đẹp, nhưng cũng không thiếu những cam go thử thách. Trở lại Canađa, Sơ Lêôni thật hạnh phúc vì có được cơ hội gần gũi người chị cả quảng đại, trong những ngày tháng cuối đời của chị ấy.
Thế nhưng hạnh phúc đó đã chẳng kéo dài bao lâu. Một năm sau đó, Sơ Lêôni được cử vào ban cố vấn cho Mẹ Giám Tỉnh và phải thuyên chuyển về Nhà Giám Tỉnh cách xa đó 250 cây số. Một lần nữa, Sơ lại từ bỏ ý riêng, gác qua một bên lợi ích của người thân, hầu đáp lại tiếng Chúa mời gọi, thể hiện qua quyết định của Bề trên.
Tiếng Chúa đáng được tuân phục trên tất cả
Dụ ngôn tiệc cưới hôm nay bao gồm hai hồi rõ rệt. Hồi một nói đến việc Nhà Vua mời thực khách (c.1-10); hồi hai liên quan đến người thực khách không chịu mặc y phục lễ cưới (c.11-14).
Cùng mang một chủ đề với hai dụ ngôn “Hai người con” và “Tá điền sát nhân” của hai Chúa Nhật trước, hồi một của dụ ngôn “Tiệc cưới” ám chỉ trước tiên việc người Do Thái, dân Thiên Chúa tuyển chọn, đã từ khước lời mời gọi tham dự vào Nước Thiên Chúa (tiệc cưới), nên các dân ngoại đã đến thế chỗ họ trong bàn tiệc Nước Trời. Tuy nhiên thái độ từ khước của nhóm khách mời thứ nhất có thể cũng là thái độ của một số Kitô hữu ngày nay. Thật vậy, Chúa luôn mời gọi chúng ta tiến vào Nước của Người bằng một cuộc sống gắn bó hơn với Chúa, chan hoà hơn đối với tha nhân. Lời mời gọi của Chúa đôi lúc thúc bách, nhưng cũng có lúc thật nhẹ nhàng, đòi phải có một thái độ bình tâm mới nghe thấy được. Thế nhưng, dù nghe thấy, chúng ta không phải lúc nào cũng lẹ làng đáp lại. Chẳng hạn, có người thân đau yếu tôi phải đi thăm, nhưng chương trình truyền hình tối nay hay quá…; có những công việc chung cần gánh vác, nhưng tôi chẳng dại gì nhúng tay vào vì ai cũng tránh né như vậy; tôi phải bác ái hơn với người này người kia, nhưng ai mà chịu đựng nổi hạng người đó; tôi nên dành nhiều thời gian hơn để chăm lo việc đạo nghĩa và việc học cho con cái, nhưng đợt hàng này nhiều quá, lại có ăn, nên thôi cứ để lũ trẻ tự lo liệu v.v… Và như thế, chúng ta có thể kéo dài đến vô tận danh sách những việc lẽ ra tôi phải làm theo sự thúc đẩy của Chúa và của tiếng lương tâm nhưng tôi đã không làm.
Câu chuyện của Sơ Lêôni và gia đình đã nêu cho chúng ta một gương sáng về việc tiếng Chúa mời gọi đáng được tuân phục trên tất cả mọi sự, trên cả những công việc xem ra là nghĩa vụ chính đáng mà ta phải đảm nhận (c.5: thăm trại; đi buôn…). Thật vậy, Sơ Lêôni lẽ ra có quyền chọn không đi tu để ở nhà giúp chị cả lo lắng cho bố mẹ và hai người anh đau yếu. Hai người anh linh mục của Sơ lẽ ra có thể ở lại trong đời thường, lập gia đình để dòng họ có người nối dõi. Sơ Lêôni đã có thể từ khước một cách chính đáng việc phải thuyên chuyển về Nhà Giám Tỉnh cho đến lúc người chị qua đời v.v… Thế nhưng Sơ và hai người anh đã đặt tiếng Chúa gọi lên trên tất cả, để hoàn toàn phục vụ Thánh Ý Chúa. Tiếng Chúa gọi đôi lúc bất ngờ, đi ngược lại những toan tính của con người. Nhưng nếu con người biết vâng theo, thì sự vâng phục của họ sẽ đem lại nhiều hoa trái. Tiếng gọi đó không nhất thiết phải là lời mời gọi sống đời dâng hiến; nhưng ở mỗi bậc sống, mỗi hoàn cảnh, Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người đến một tình trạng hoàn thiện hơn theo bậc sống của mình. Chẳng hạn thánh Lê Văn Gẫm ắt cũng phải phiền lòng khi phải rời chủng viện để về giúp đỡ bố mẹ già yếu. Thế nhưng nhờ sống theo lòng mến Chúa đặt trong tim, mà thánh nhân đã trở nên một trợ tá đắc lực cho các thừa sai nước ngoài; lén lút đưa các ngài vượt biển từ Mã Lai vào Nam Kỳ, cũng như đưa các chủng sinh từ Nam Kỳ qua Mã Lai du học. Và cuối cùng, ngay trong bậc giáo dân, thánh nhân đã được phúc tử đạo trong lúc phục vụ Giáo Hội và trở nên một vị Thánh lớn trong số các vị tử đạo của Việt Nam.
Tiếng Chúa đáng được thực thi đến cùng
Hồi thứ hai của dụ ngôn (c.11-14) có thể khiến người đọc kinh ngạc về sự nghiêm khắc của nhà Vua khi ông cho tống cổ một thực khách không mặc y phục lễ cưới khỏi bàn tiệc. Thế nhưng chi tiết này của dụ ngôn chỉ nhằm nói lên rằng: chỉ chấp nhận lời mời dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa vẫn chưa đủ; nhưng còn phải khuôn mình theo lối hành xử của các “công dân Nước Trời”. Nói cách khác, “theo Ðạo” thôi thì chưa đủ, còn phải “sống Ðạo”, thực hành Lời Chúa cho đến kỳ cùng. “Chiếc aó lễ cưới phải khoác” trong dụ ngôn này chính là biểu tượng cho việc sống Ðạo, cho việc thực thi tiếng Chúa mời gọi vang lên trong lương tâm mỗi người. Về điểm này, Ðức Giêsu từng dạy rằng: “Không phải bất cứ ai nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21)
Ðến đây, chúng ta rút ra bài học sau từ dụ ngôn Tiệc Cưới: hãy mau mắn đáp trả đến kỳ cùng lời mời của Thiên Chúa. Thế nhưng có những người sẽ thắc mắc tại sao lại phải dự tiệc. Nói cách khác, Tiệc cưới ở đây có ý nghĩa gì?
Tiếng Chúa mời gọi mọi người đến với ơn cứu độ
Thật ra hình ảnh “đại tiệc” đã được sử dụng nhiều lần trong Cựu Ước để ám chỉ sự khôn ngoan của Thiên Chúa (Cách Ngôn 9,1-10) và ơn cứu độ cánh chung Thiên Chúa dành cho nhân loại (Isaia 25,6-12). Ngày đó, Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc trên núi này: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon… Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân,… sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần,… sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người… (Is 25,6-8). Cũng vậy, sách Cách Ngôn có viết: “Ðức khôn ngoan xây cất nhà mình, dựng trên bảy cây cột; hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ tì ra đi… Hãy bước đi trên con đường hiểu biết và các con sẽ được sống.”
Nếu mọi người hiểu được ý nghĩa trên đây của “tiệc cưới”, ắt họ đã mau mắn đáp lại “Lời mời của Thiên Chúa” đến kỳ cùng, để được chung hưởng sự khôn ngoan và bàn tiệc cứu độ Người dọn sẵn cho mọi người. Ðó chính là ơn mà chúng ta cần xin cho nhau hôm nay. Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có Lời ban sự sống đời đời. Amen.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Có người cho rằng ơn gọi dâng hiến (như Sơ Lêôni và hai người anh linh mục của Sơ) thì cao trọng hơn ơn gọi giáo dân vì ơn gọi đó đòi buộc nhiều hơn. Bạn nghĩ sao?
2. Trong hoàn cảnh hiện tại của tôi, Chúa mời gọi tôi cụ thể điều gì, để cải thiện đời sống thiêng liêng của tôi, cũng như đời sống trong gia đình, trong môi trường làm việc, trong giáo xứ, và trong việc công ích xã hội?
Lm. Augustine S.J.