Loài Vạc (Nycticorax), có người gọi là Hạc, là động vật có cánh, một loài chim thuộc họ Diệc, kiếm ăn ban đêm và có tiếng kêu buồn thảm. Tiếng Vạc kêu sương (*) nghe buồn thảm vì là tiếng lòng của kẻ lẻ bạn, đơn độc, một mình bay đi kiếm ăn ban đêm nhưng lòng vẫn thương nhớ khôn nguôi về người bạn tình phương xa. Não nề lắm! Tiếng Vạc kêu trong đêm vắng, kêu trong làn sương lạnh lùng, sao lại không buồn?
Cố NS Trịnh Công Sơn đã ví mình “Như Cánh Vạc Bay” với niềm trăn trở: “Nơi em về ngày vui không em, nơi em về trời xanh không em? Ta nghe từng giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh”. Mình buồn thì buồn nhưng vẫn mong cho người hưởng trọn niềm vui. Cao thượng lắm!
Tương tự, ngày xưa Thánh Gioan Tẩy Giả cũng đã ví mình là “Tiếng Kêu Trong Sa Mạc”. Cũng buồn. Cũng lạc loài. Nhưng nỗi buồn của Ngôn sứ này không ảo não như “tiếng kêu” của đời thường. Vâng, có lẽ vì vậy mà Chúa Nhật III Mùa Vọng có màu Tím nhưng mang sắc Hồng, bâng khuâng mong chờ nhưng vẫn hân hoan hy vọng – gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete Sundae), còn Mùa Chay có Chúa Nhật IV là Chúa Nhật Mừng (Laetare Sundae).
Thiết tưởng cũng nên biết rằng Vòng Nến Mùa Vọng (Adventkranz) bắt đầu xuất hiện cách nay khoảng 150 năm, do sáng kiến của mục sư Tin Lành Johann Heinrich Wichern ở Hamburg (Đức).
Bốn ngọn nến tượng trưng cho [1] Hòa Bình, [2] Niềm Tin, [3] Tình Yêu, và [4] Hy Vọng. Thế giới hiếm khi không có chiến tranh, giữa người với người cũng vẫn thiếu sự hòa thuận, dù là những người trong cùng một gia đình. Ngọn nến Hòa Bình cứ mờ dần, chỉ còn leo lét, rồi… tắt. Cũng vậy, thế giới ngày nay đang mất dần niềm tin, coi niềm tin tôn giáo là xa xỉ phẩm, thậm chí còn bị phỉ báng hoặc bị bách hại. Ngọn nến Niềm Tin cứ tắt dần, tỏa ra làn khói trắng luyến tiếc. Tương tự, người ta cũng không cần ngọn nến Tình Yêu nên không muốn thắp sáng ngọn nến này nữa. Những người thân ruột thịt với nhau mà còn thổi tắt ngọn nến này thì nó làm sao tỏa sáng? Ba ngọn nến kia tắt hết, chỉ còn ngọn nến Hy Vọng vẫn sáng, dù ánh sáng yếu ớt, le lói…!
Ít ra cũng còn ngọn nến Hy Vọng. Cuộc sống này luôn cần ngọn nến này, dù các ngọn nến Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu đã tắt. Tại sao? Ngọn nến cần thiết vì chính ngọn nến Hy Vọng (đức Cậy) sẽ đủ sức thắp sáng ba ngọn nến kia. Vâng đó cũng là triết lý sống của Mùa Vọng, mùa đợi trông Đấng Cứu Thế. Hãy cố gắng ghi nhớ và thực hành theo lời khuyên của Thánh LM Don Bosco: “Càng khốn khó thì càng phải tin cậy vào Thiên Chúa”.
Ai biết tin cậy vào Ngài là biết hạ mình, tự nhận mình bé nhỏ, chắc chắn Ngài sẽ xót thương và cứu vớt. Ngôn sứ Isaia nói: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta” (Is 61:1-2). Công lý rất cần được tôn trọng, vì có công lý thì mới có hòa bình đích thực. Và rồi thế cờ hoàn toàn đảo ngược.
Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, tăng vọt bất ngờ khi có Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61:10-11). Không trang phục nào quý giá bằng chiếc áo Hồng-Ân-Cứu-Độ và áo choàng Chính-Trực-Công-Minh.
Đức Maria là một thôn nữ đơn nghèo, là một nữ tỳ khiêm hạ, nhưng lại trở nên một con người vĩ đại nhất. sau khi Bà Chị Êlidabét chúc mừng Cô Em Maria được làm Mẹ Thiên Chúa, Thôn Nữ Maria đã không thể trì hoãn cái sự sung sướng hạnh phúc thánh đức đó, nên đã đã thốt lên bài Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:46-50).
Thiên Chúa chí minh luôn bảo vệ công lý, và Ngài cũng luôn có cách hành động khác hẳn so với phàm nhân: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:53). Tuyệt vời quá, từ bi quá!
Cuộc đời chúng ta là Mùa Vọng kéo dài, không ai biết mình đang ở “tuần” thứ mấy của Mùa-Vọng-Cuộc-Đời, nhưng có lúc chúng ta cảm thấy vui mừng như tâm tình của Chúa Nhật hôm nay, vui mừng vì chúng ta sắp về đích. Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:16-22).
Được vậy thì sẽ được Thiên Chúa chúc lành như ước mong của Thánh Phaolô: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1 Tx 5:23-24). Ước gì chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn phúc như vậy!
Mùa Vọng là mùa mong đợi, bao hàm ý nghĩa “đến” của Chúa Giêsu – Adventus. Trước khi Chúa Giêsu đến, có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin. Tin Mừng hôm nay nói tới “Lời Chứng” của ông Gioan (Ga 1:6-8,19-28; tương đương ở Mt 3:1-12; Mc 1:1-8; Lc 3:1-18).
Khi người Do-thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi xem ông là ai. Ông tuyên bố thẳng thắn và nói ngay: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Nhưng họ không tin, và họ lại hỏi ông như thế là thế nào, có phải Gioan là Êlia không. Ngớ ngẩn hết sức. Gioan mà sao lại là Êlia? Ông Gioan một mức xác nhận là “không phải”. Họ lại hỏi ông có phải là vị ngôn sứ hay không. Ông dứt khoát là “không”. Họ cứ lải nhải hỏi mãi, dai nhách như đỉa đói, vì họ có nhiệm vụ đi dò la tin tức để về báo cáo với cấp trên. Động thái của những người có ác ý đó nhắc nhở chúng ta về động thái cố chấp, thấy nhãn tiền mà vẫn không muốn tin. Hãy coi chừng: Không tin thì nhẹ tội hơn không muốn tin!
Họ nài ép ông Gioan nói về chính mình, ông không hề ấp úng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”. Hôm đó, trong số họ có mấy người thuộc phái Pharisêu, những kẻ chuyên “thọc gậy bánh xe”. Họ đặt vấn đề với ông Gioan rằng nếu ông không phải là Đấng Kitô, không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ thì sao lại làm phép rửa. Ông Gioan lắc đầu vì chán cái đầu bã đậu của tụi này, rồi ông cười: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Một ngôn sứ lớn, “nhịp cầu” nối Cựu Ước và Tân Ước, nhưng lại khiêm nhường quá. Điều này gợi nhớ câu nói khác của Thánh “trưởng lão” Gioan: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3:30). Câu này chỉ có Tin Mừng theo Thánh Gioan ghi lại, còn các Phúc Âm nhất lãm không ghi. Câu này quen “thu gọn” cho dễ nhớ: “Người phải lớn lên, tôi phải nhỏ lại”.
Kinh Thánh cho biết địa điểm đã xảy ra vụ này ở tại Bêtania, bên kia sông Giođan, chính nơi ông Gioan đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu. Thảo nào bè lũ Pharisêu và Sađốc quỷ quyệt thật, muốn “gài bẫy” người khác ngay nơi xảy ra sự việc. Chúng ta cũng có những lần đã từng ma mãnh như vậy vì muốn “hạ gục” người khác đấy. Tuy nhiên, mọi chứng cớ gian xảo đều không thể nào “bóp méo” sự thật!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết “thu nhỏ” trước người khác, chấp nhận là cánh vạc kêu sương vì Danh Đức Giêsu Kitô, vì sự thiện, vì công lý, vì sự thật, vì lợi ích của tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Điển tích: Thôi Hộ là danh sĩ đời Trung Ðường, diện mạo khôi ngô, thích làm bạn với sách vở. Trên đường lên kinh ứng thí giữa tiết Thanh Minh, mọi người đang vui hội Ðạp Thanh (giẫm lên bãi cỏ xanh). Khi đi ngang qua vườn hoa đào tuyệt đẹp, chàng dừng lại ngắm và xin nước uống, một mỹ nhân duyên dáng ra mở cửa. Nàng mời trà, chàng đón nhận. Ðôi tay vô tình chạm nhau, nàng thẹn thùng cúi mặt, má ửng hồng, chàng cũng bồi hồi, ngượng nghịu. Gặp nhau không lâu nhưng cả hai thấy tâm đầu ý hợp, quyến luyến nhau. Thôi Hộ phải đi vì công danh sự nghiệp, Phụng Trinh đứng dưới gốc đào ngơ ngẩn nhìn theo…
Năm sau, vào ngày hội du xuân, chàng nho sinh nhớ người con gái đã khiến chàng dệt bao mộng đẹp. Chàng tìm đến vườn đào để thăm. Bước vội vã hân hoan của chàng khựng lại khi thấy cửa đóng then cài, cảnh cũ còn mà người xưa vắng bóng. Chàng buồn bã nhìn hoa đào nở tươi trong gió xuân mà bùi ngùi niềm cô quạnh. Chàng thờ thẫn đau lòng khi nghĩ nàng đã theo chồng. Quá thất vọng, chàng thảo bốn câu thơ trên cửa cổng, ghi lại tâm tư sầu nhớ ngậm ngùi của mình.
Chiều đến, nàng cùng cha trở về, chợt nhìn lên cổng thấy bốn câu thơ, nét chữ tinh xảo, ý thơ dồi dào, nàng xúc động khi biết rõ tình cảm nhớ mong của chàng ẩn chứa trong đó. Nàng buồn bã hối tiếc không về kịp để gặp lại chàng. Ngày qua ngày nàng tựa gốc đào tha thiết mong đợi và hy vọng nho sĩ phong nhã năm xưa trở lại. Thời gian cứ trôi, cánh chim bạt gió cất tiếng kêu thảm thiết não nùng vì lẻ bạn khiến lòng nàng tê tái. Cứ hết hè lại thu sang, đông qua rồi xuân về, nỗi nhớ nhung nung nấu khiến lệ trào khóe mắt, bóng chàng vẫn biền biệt. Nàng tuyệt vọng, bỏ ăn, bỏ ngủ, thân xác tiều tụy, dung nhan võ vàng.
Người cha lo tìm thầy giỏi chữa trị cho nàng. Làm gì có thuốc trị bệnh tương tư! Biết mình kiệt sức không sống được, nàng đành thuật lại tâm sự của mình cho cha nghe và xin cha tha tội bất hiếu. Người cha xúc động thương cho phận bạc của con gái. Nhìn con nằm lịm trên giường bệnh chờ đợi tử thần, ông nóng lòng đứng ngồi không yên. Ông nghĩ đến chàng thư sinh, chỉ có người ấy mới có thể cứu sống con gái. Vừa ra khỏi cổng, ông găp ngay một chàng thư sinh tuấn tú. Thấy ông già đi như chạy, chàng vội thăm hỏi. Ông kể lể sự tình…
Nhận ra nhau, hai người vội chạy vào nhà, nhưng cũng là lúc Phụng Trinh trút hơi thở cuối cùng. Chàng xúc động quỳ xuống, cầm tay nàng, úp mặt vào mặt nàng vừa khóc nức nở vừa kêu tên nàng thảm thiết. Tiếng kêu bi thương như lay hồn nàng thức tỉnh, và những giọt nước mắt nóng hổi của tình yêu nhỏ xuống mặt nàng khiến nàng hồi sinh. Nàng mở mắt nhìn chàng và nở một nụ cười sung sướng. Ðào Bạch Phụng bằng lòng cho Phụng Trinh và Thôi Hộ nên duyên cầm sắt.