Huấn Từ Cha Linh Giám Curia Tháng 05-2018

Nhân Đức Đạo Hạnh (Lc 1:46-47; Cv 1:14)

Tháng năm, chúng ta tìm hiểu về Nhân đức Đạo Hạnh của Mẹ Maria. Dựa vào những câu 46-47 trong chương 1 của Tin mừng thánh Lu-ca, và câu 14 trong chương 1 của Sách Công Vụ các Tông Đồ, chúng ta cùng đọc lại:

Tin mừng Lu-ca 1:46-47 – Ði thăm Bà Ê-li-sa-bet.

46 Và Maria nói: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,

47 và thần khí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ của tôi. 

 

Công Vụ các Tông Đồ Cv 1:14 – Hợp lòng hợp ý trong lời cầu nguyện và phục vụ.

14 Hết thảy họ đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, và Maria, Mẹ Chúa Giê-su và các anh em Ngài.

          Nhân Đức thứ năm của Mẹ Maria là Lòng Sùng Kính. Tất nhiên, từ ngữ “sùng kính” có một vài ý nghĩa khả thi. Chúng ta sẽ sử dụng nó để giải thích các ân sủng mà Chúa đã ban cho chúng ta, đặc biệt là lời cầu nguyện trong Lòng Đạo Đức của Mẹ. Có hai chiều kích:

 

  1. Lòng Đạo Đức của Mẹ Maria hướng về Thiên Chúa.

Lời cầu nguyện của Mẹ Maria liên quan đến sự lắng nghe Lời của Thiên Chúa. Mẹ Maria đại diện cho mô hình của Giáo Hội khi cầu nguyện. Mẹ đã được hấp thụ trong lời cầu nguyện khi thiên thần Ga-bri-el đến nhà của Mẹ ở Na-za-reth và chào Mẹ. Lời cầu nguyện này chắc chắn đã biểu lộ sự đồng cảm sâu xa của Mẹ với mầu nhiệm Nhập Thể. …

          Mẹ Maria cho thấy Mẹ là một người cầu nguyện chân thành khi Mẹ dâng lời khen ngợi và lời kinh Ma-gni-fi-cat vĩ đại của Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1:46). Ngợi khen và tạ ơn phải là trái tim sống của đời sống cầu nguyện của mọi Ki-tô hữu, vì nó là sự liên kết gắn bó với Thiên Chúa: quyền năng vô hạn, sự khôn ngoan và tình yêu của Ngài, và kế hoạch thương xót của Ngài cho mọi sinh vật. Đó là lý do tại sao hành động trung tâm của cộng đoàn cầu nguyện của giáo hội theo truyền thống được gọi là “Thánh Thể,” trong tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là “Lễ Tạ Ơn”.

          Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta ca tụng về những điều chúng ta yêu thích. Nhiều tài liệu văn chương trên thế giới mô tả đầy rẫy với những vần thơ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và những phẩm tính của sự vật được nhà thơ yêu thích. Ngay cả ở cấp độ trần tục nhất, những người yêu thích cùng một cuốn sách hoặc một bộ phim, cùng một ca sĩ hoặc các đội thể thao tương tự, sẽ tự nhiên cùng nhau thể hiện niềm vui chung của họ trong các đối tượng của sự tận tụy của họ. Để ca ngợi những điều chúng ta yêu thích chỉ đơn giản là để thưởng thức chúng, và để thỏa mãn với chúng. Điều tương tự cũng đúng đó là ca ngợi Chúa, Đấng mà chúng ta trân trọng và tôn kính trong mọi điều: “Hãy đến đây, ta reo hò mừng Chúa. Tung hô Người là núi đá độ trì ta. Vào trước thánh nhan dâng lời cảm tạ. Cùng tung hô theo điệu hát cung đàn”. (Tv. 95:1-2)

Mẹ Maria cho chúng ta thấy rằng lời cầu nguyện chân chính liên quan đến sự cầu khẩn khiêm tốn tới Chúa cho mọi nhu cầu của chúng ta. Ví dụ, tại tiệc cưới ở Cana, Mẹ đã can thiệp vào việc của con trai mình để giải quyết cho những nhu cầu đơn giản, vật chất và xã hội của cô dâu và chú rể: “Họ hết rượu rồi!” (Ga 2: 3). Trong Nhà tiệc ly, sau khi Chúa Giê-su lên trời, Mẹ tham gia cầu nguyện với cộng đoàn các môn đệ, chờ đợi và cầu nguyện cho sự tuôn đổ đặc biệt ơn Chúa Thánh Thần mà Chúa Giê-su hứa ban. (Công vụ 1: 4).

 

Danh hiệu Đức Nữ Rất Đáng Kính Chuộng nói với chúng ta về sự cống hiến của Mẹ Maria cho Chúa Giê-su. Để truyền đạt ý nghĩa của lòng Đạo Hạnh, Chân phước John Henry Newman đặt trước chúng ta ví dụ về một người vợ hoặc con gái tận tụy. Ngài giải thích là Mẹ của Chúa Giê-su có sự gắn bó lâu dài với Chúa Giê-su suốt ba mươi năm. Mẹ Maria là Đức Nữ Rất Đáng Kính Chuộng nhất. Lòng đạo đức của Mẹ là để cống hiến. Chúng ta biết ý nghĩa của một người vợ hoặc con gái tận tụy. Đó là một trong những suy nghĩ trọng tâm trong người được yêu thương sâu sắc, dịu dàng chăm nom và ấp ủ. Mẹ theo Chúa Giê-su bằng đôi mắt của Mẹ; Mẹ tìm kiếm những phương tiện phục vụ Chúa Giê-su. Sự phục vụ của Mẹ rất nhỏ trong tính cách thể hiện mức độ thân mật giữa Chúa Giê-su và Mẹ không ngừng nghỉ. Và đặc biệt là nếu đối tượng của tình yêu của Mẹ yếu đuối, hoặc trong nỗi đau đớn, hoặc trong giờ hấp hối, Mẹ vẫn sống mạnh mẽ hơn trong cuộc đời của Chúa Giê-su, và không biết gì ngoài Chúa Giê-su ra.

  1. Lòng Đạo Đức của chúng ta hướng về Thiên Chúa.

Luân lý nền tảng của Giáo Hội Công Giáo dạy chúng ta 3 nhân đức đối thần: Tin, Cậy và

Mến. Đối tượng của 3 nhân đức này là chính Thiên Chúa. Nói cách khác, cùng đích của chúng ta là hướng về Chúa. Chúng ta tin tưởng nơi Ngài, trông cậy vào Ngài và yêu mến Ngài.

Sự tận tâm mãnh liệt này đối với Chúa chúng ta, cần được thấm nhuần tinh thần như Thánh Phao-lô, ngài nói. “Tôi không biết gì khác ngoài Chúa Giê-su Ki-tô và Chúa Ki-tô bị đóng đinh.”  Và một lần khác, “Tôi sống bây giờ, không phải là tôi sống, nhưng là Chúa Giê-su sống trong tôi; và [sự sống] mà bây giờ tôi sống trong xác thịt, tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi, và phó mạng sống Ngài vì tôi.”

 

Người khác có khen ngợi chúng ta đạo đức là bởi vì họ nhìn thấy bên ngoài những gì chúng ta làm: chúng ta đọc kinh, tham dự thánh lễ, hoạt động trong các hội đoàn, thăm viếng kẻ yếu đau bệnh tật, giúp đỡ người nghèo túng… tựa như“tay trái biết rõ việc tay phải làm gì.” Chúa Giê-su dạy chúng ta, khi làm việc gì, đừng để tay trái biết việc tay phải làm… Vì như vậy, chúng ta đã được thưởng công rồi. Lòng đạo đức đích thực của chúng ta hướng về Thiên Chúa trong sự thầm lặng, kín đáo, bởi vì, Thiên Chúa thấu suốt mọi tam can lòng dạ con người. (Mt 6:3-4)

Lòng đạo đức chúng ta có đối với con người được gọi là lòng nhân đạo. Nó thuộc phạm vi đạo làm người với những đức tính về nhân bản. Nó hướng về con người, giữa người với người. Chúng ta nhớ đến nền tảng Đạo Đức Học Phương Đông dạy cho bậc Nam Nhi: Tam Cương – Ngũ Thường. Những điều dạy cho bậc Nữ Nhi: Tứ Đức – Tam Tòng. Chúng ta không nên lẫn lộn lòng Tin vào Thiên Chúa và lòng tin vào con người, lòng cậy trông vào Thiên Chúa và lòng cậy trông vào con người, lòng mến vào Thiên Chúa và lòng mến vào con người. Hai đối tượng này hoàn toàn khác biệt, tuy có lúc bổ túc cho nhau. Ví dụ, Chúa Giê-su dạy về Đức Ái, Ngài nói: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”. (Mt 22:37-39)
          Đạo đức nhân bản là đạo làm người. Đạo đức tâm linh là đạo làm con Chúa. Có hai cách chúng ta thực hiện “đạo làm con Chúa”: thứ nhất là yêu thương ai thì luôn nhớ đến người ấy. Yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta giữ giáo huấn của Ngài và thực hiện giáo huấn ấy bằng hành động. Hành động đầu tiên là giữ mối tương quan với Ngài bằng lời nguyện cầu liên lỉ. Mà cầu nguyện không có nghĩa là đọc kinh. Cầu nguyện là ca ngợi, chúc tụng và tạ ơn liên tục. Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương nhau, vì thế, hành động thứ hai là giữ mối tương quan với mọi người bằng tình yêu thương đồng loại. Chia sẻ và đồng cảm với mọi người trong mọi hoàn cảnh vui buồn; không tính toán so đo hơn thiệt.“Vui với người vui, khóc với ai buồn phiền”.(Rm 12:15)

Tóm lại, lòng Đạo Đức của chúng ta hướng về Thiên Chúa qua tha nhân. Bởi vì mối tương quan là anh chị em với nhau, là con của cùng một Cha trên trời. Lòng Đạo Đức của Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana là bài học cho chúng ta về lòng Đạo Đức. Một mặt hướng về Chúa Giê-su như một vị Thiên Chúa làm người, mặt khác, hướng về đôi hôn nhân và khách dự tiệc như là chính người nhà của mình, như chính “vấn đề” của mình cần được giúp đỡ. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta tiến triển trên con đường đạo đức trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người.

Chia sẻ Bài này:

Related posts