Ngay từ hồi còn làm cậu gíup lễ nơi miền quê xứ Bắc cách đây hơn năm mươi năm, chúng tôi đã được thầy Văn cho đọc hạnh các Thánh và câu chuyện của những vị ẩn tu trong rừng trên núi ấy đã hấp dẫn tôi một cách lạ kỳ. Có người nói dấu ấn tuổi thơ sẽ quyết định cho đường đời của mỗi người. Điều ấy chẳng biết thế nào, nhưng riêng với tôi, càng nghiệm càng thấy nó quả không sai. Tôi thuộc typ người ưa cuộc sống nội tâm hơn là họat động, điều ấy không còn nghi ngờ gì nữa. Nhớ hồi còn ở đơn vị truyền tin đóng tại thị xã Gia Nghĩa (Quảng Đức) những ngày không có ca trực, tôi thường hay vào rừng (Trại gia binh ở sát bìa rừng) ngồi bên một gốc cây to bên bờ suối thả hồn vơ vẩn. Tôi rất thích ngắm nhìn sông nước, biển khơi, chẳng biết có phải vì nó khiến cho mình dễ dàng trong việc hồi tưởng ? Dẫu vậy, việc hồi tưởng ấy thật sự chẳng đem lại một chút gì an thỏa ngòai ra là những giây phút trốn lánh cuộc sống náo nhiệt bên ngòai. Những giây phút… quên đời ấy chỉ là giả tạo bởi lẽ làm sao có thể quên được đời khi mình còn mang cái thân hữu hình hữu họai này ? Có người nói, kẻ đi tu là những kẻ trốn đời, điều ấy có đúng chăng ? Theo tôi, để có câu trả lời thỏa đáng thì trước hết cần phải đánh giá lại bản chất của cõi đời, nó khổ đau hay hạnh phúc, sướng vui ? Với những ai có một chút trí tuệ ắt sẽ cho rằng cõi thế gian này là cõi khổ. Đã nhận ra khổ thì phải tìm đường thóat khổ. Người đi tu là những kẻ đã tìm được cho mình con đường thóat khổ, chẳng những thóat cho mình mà còn muốn thóat cả cho người. Con đường thóat khổ ấy tuy vậy lại rất khó để đi cho trọn. Có biết bao trở ngại đang chờ đón người tu ! Chính bởi khó khăn là rất lớn thế nên các Đấng sáng lập tôn giáo chẳng hạn như Phật Thích Ca đã phải trải qua vô vàn kiếp số thực hành Bồ Tát Đạo mới có thể chỉ ra con đường giải mê khai ngộ. Còn Đức Giêsu Kitô thì đã phải hiến dâng chính mạng sống mình để làm giá cứu chuộc nhân lọai. Với Chúa đã vậy, còn những kẻ nào muốn theo con đường của Ngài thì cũng phải dám bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo ( Mt 16, 24 ) Con đường tu khó khăn là vậy , thế nên hết thảy những ai khao khát chân lý đều phải hết sức nỗ lực . Đức Kitô nói “ Luật pháp và tiên tri đến Gioan là hết, từ đó Tin Mừng Nước Trời được rao giảng và ai nấy đều phải nỗ lực mà vào” ( Lc 16, 16.) Cái chỗ “ Vào” mà Chúa nói đây chỉ có thể là chính tâm hồn của mỗi người. Những kẻ theo Chúa, tức các môn đệ Ngài dù cho họat động trong bất cứ lãnh vực nào hay ẩn tu trong rừng trên núi, từ thế hệ này sang thế hệ khác , hết thảy đều chỉ có một chỗ để “ Vào” đó là cái Tâm của mình. “ Vào” theo ngôn từ Nhà Phật cũng tức là “ Ngộ nhập” và đây phải là đích điểm của mọi con đường tâm linh. Sở dĩ người thế gian bị hết khổ này đến khổ khác làm cho bầm giập là vì cứ mải mê tìm cầu những cái ở bên ngòai mình. Đang khi đó an vui phước lộc đã sẵn đủ ở nơi Tâm, chỉ cần biết thành tâm quay vào là gặp. Như vậy tất cả vấn đề ở chỗ là quay vào bên trong, tuy nhiên làm sao để… quay vào đó mới là điều quan hệ…Lần kia Huệ Khả đến xin với Tổ Bồ Đề Đạt Ma phép để an tâm. Tổ nói “ Hãy đem tâm ra đây ta an cho. Huệ Khả sững nguời tìm tâm mãi chẳng thấy bèn nói: con tìm tâm chẳng được. Tổ Đạt ma liền bảo:Ta đã an tâm cho ngươi rồi. Một đàng trò xin thầy dạy pháp an tâm, một đàng thầy lại bảo đem tâm ra ta an cho. Trò nói tìm tâm không được thì thầy lại nói ta đã an tâm cho ngươi rồi .
Xem qua vấn đáp , ta thấy rất ư khó hiểu nhưng đây là chỗ kỳ đặc của Thiền tông. Tổ sư biết rằng tìm tâm chẳng bao giờ đượ bởi lẽ nó có đâu mà tìm ? Nói đúng hơn thì Tâm không thật có , nó chỉ là những nghĩ tưởng lăng xăng hư dối , hiện lên chớp nhóang chỉ trong một sát na thôi thì làm sao đem nó ra được ? Theo quan điểm Thiền tông, để tu pháp an tâm thì chỉ cần biết vọng tức biết những tư tưởng thọat khởi trong đầu đó chỉ là vọng tưởng không thật. Biết tâm lăng xăng ấy không thật, liền buông , buông bỏ thì tâm lập tức được an.
Đang đọc kinh, chợt nhớ đến việc này , người nọ …biết đó chỉ là bóng dáng pháp trần không thật, bèn cầm trí trở lại, đây chính là Thiền. Điều này nói thì rất mực đơn giản nhưng trong thực hành lại vô cùng khó và đây quả là một trận giặc phiền não mà nếu không có phương pháp hữu hiệu thì không ai có thể thắng. Phương pháp ấy được tổ chức bằng những cuộc nhập thất dài hoặc ngắn định kỳ hàng năm nhưng ít nhất là phải bảy ngày , còn dài thì tùy mỗi người , có người như hòa thượng Quảng Khâm nhập thất liền một mạch tới mười ba năm. Thánh An tôn ( 251 – 356 ) ở trong sa mạc còn hơn nữa, tới tám mươi năm. Nhập thất không phải là đặc quyền của Phật giáo nếu ta hiểu được ý nghĩa chân thật của nó. “ Nhập” như đã biết là “ Ngộ nhập” là “ vào” , còn “ Thất” tức là Nhà cũng tức là Tâm của mỗi người. Đức Kitô nói Tin Mừng đã được rao giảng , các ngươi phải nỗ lực mà vào tức có nghĩa mỗi người cần phải trở về và sống với Tâm chân thực của mình. Mặt khác việc đi sâu vào Bản Tâm ấy không phải chỉ thấy diễn ra trong thời Tân Ước nhưng ngay trong thời Cựu ước các đấng tiên tri không ai là không có cho mình những cuộc nhập thất cực kỳ quan trọng. Trước khi nhận lãnh mười giới răn Maisen đã gặp Chúa trên núi Sinai “Đức Giêhova đối diện phán cùng Maisen như một người nói chuyện cùng bạn hữu mình “ Xac 33, 11 . Còn Elia một tiên tri vĩ đại của thời cựu đã gặp Chúa trên núi Horep và được mạc khải cho biết về sự hiện hữu của Ngài” ( 1V 19, 9 – 12 )
Con đường giải thóat đích thực chỉ có một, đó là quay vào bên trong , chẳng những tâm linh tôn giáo mà cả minh triết cũng vậy. Triết Hy lạp nói “ Hãy tìm cho biết về chính mình mày” ( Connais toi , toi – même ) Đông phương Lão Tử nói “ Ta từ vô lượng kiếp nhờ nhìn sâu vào tâm mà tìm ra Đạo” ( Lão quân viết = ngô tòng vô lượng kiếp lai quán tâm đắc đạo” . Để đắc được Đạo rất khó, duy chỉ những bậc Thánh nhân mới có thể, nhưng nếu vậy tuyệt đại đa số nhân lọai thì sao , chẳng lẽ vô phần ?. Hòan tòan không phải vậy, hết thảy đều có thể “ vào” nhưng bằng những hình thức khác. Đạo Phật có Thiền tông nhưng cũng có Tịnh Độ. Thiền tông chủ trương kiến Tánh thành Phật, còn Tịnh Độ tông thì lấy Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc làm cứu cánh . Đạo Chúa, Đức Kitô vừa rao giảng Nước Trời , kêu gọi con người thể nhập để được tái sanh ( Sống lại ) vừa hứa Nước Thiên Đàng cho những ai tin tưởng cậy trông nơi Ngài “ Ta đi để sắm sẵn cho các ngươi một chỗ , khi Ta đi mà sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi thì Ta sẽ trở lại tiếp đón các ngươi về với Ta hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng sẽ ở đó”( Ga 14, 2 – 3).
Đắc đạo thành Phật, đó là con đường tự lực, đường này phải trải qua nhiều giai đọan cực kỳ khó khăn và trong thời mạt pháp này không ai có thể dù cho là có tu Thiền đến chỗ đại ngộ “ Có Thiền không Tịnh độ , mười người hết chín chần chờ. Đến lúc ấm cảnh hiện tiền, chớp mắt theo đó mà đi” ( Tổ Vĩnh Minh ) Tu Thiền đến chỗ đại ngộ cố nhiên là cực khó thế nhưng chỉ cần một niệm móng khởi là đã đọa vào luân hồi . Trái lại để vãng sanh lại rất dễ, chỉ cần niệm sáu chữ Hồng Danh Phật ( lục tự kinh ) “ Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật, niệm Phật , đời này đời sau quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa. Chẳng nhờ đến pháp phương tiện nào khác mà cũng tỏ ngộ được Tâm của mình như người ướp hương thân có mùi hưong” ( kinh Vô Lượng Thọ- Quyển hạ ) đến chỗ nhất tâm. Con đường Vào ( ngộ ) của Đạo Phật cũng như của Đạo Chúa không thể chống trái nhau bởi lẽ con người dù về hình thức phong tục tập quán văn hóa có khác nhưng cũng chỉ có một cái Tâm duy nhất.
Tâm duy nhất ấy đó là Chân Tâm thường trụ đồng thời cũng là Tánh Biết viên mãn, là Đấng Tỳ lô Giá na, Đấng Cha Vô Cùng Lân Tuất v.v…Nếu Đạo Phật có cả Thiền tông lẫn Tịnh Độ tông thì Đạo Chúa cũng vậy cũng có cả Chiêm niệm lẫn cầu nguyện. Viết về nhập thất mà lại giải thích có phần …dài dòng văn tự thế này âu cũng không ngòai mục đích trước là để trả lời cho câu chất vấn: Là người Công giáo sao lại phải vào chùa để tu ? . Tiếp nữa , để nêu lên một kinh nghiệm thiết thân cho những bằng hữu nào muốn thật tâm đi vào con đường tu tập. Ngày đó tôi đang làm trưởng Curia Junior có gần năm trăm em, bởi vậy trach nhiệm không phải là nhỏ . Là hội viên Legio lại vào ở hẳn trong chùa cả tuần ai mà chẳng thắc mắc, có người còn nói ông Hóa bỏ Chúa theo Phật rồi !!! Từ khi được ơn trở lại tôi chuyên cần lần chuỗi Mân Côi. Chẳng những đọc mà còn quyết tâm tìm cho ra cái lý của Kinh ấy. Tôi tìm đọc các sách vở về Kinh MC của các cha …Hiến, cha Nguyễn tri Ân OP và cả của ông Cao Tấn Tĩnh dịch Thánh Monfort…nhưng tất cả đều không đáp ứng. May thay một lần vào thăm sư Liêm, ngài đưa cho tôi cuốn Quán Thế Âm Bồ Tát Tín Luận chép tay của cư sĩ Hải Tín . Nhận sách về, ngay ngày hôm đó và tiếp liền trong suốt tuần, chẳng những tôi say mê đọc mà còn chép lại gần như tòan bộ khỏang hơn hai trăm trang giấy vở học trò. Cũng trong khỏang thời gian mấy năm vừa trở lại ấy tôi còn được đọc những bộ kinh luận hết sức giá trị của Tịnh Độ tông như Kinh A Di Đà yếu giải của Thích Tuệ Nhuận, kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô lượng Thọ v.v…
Quả là khi quyết định nhập thất tôi đã biết mục đích cũng như phương cách thực hành , điều này rất ư quan trọng, nếu không sẽ rất nguy hiểm bởi đường tâm linh chỉ cần sai một ly sẽ.. đi một dặm. Như đã nói tôi chuyên cần lần chuỗi ngay sau khi đã được ơn trở lại và khỏang chừng hai năm sau thì nhập thất. Con người sống ở đời là phải tiếp xúc với biết bao nhiêu sự việc dù có muốn hay không muốn , do đó tâm luôn trong trạng thái náo động. Nguyên lý của việc đọc kinh cầu nguyện nói riêng và sống đạo yêu mến nói chung là phải có sự chuyên nhất “ Ngươi phải yêu mến Thiên Chuá ngươi hết lòng, hết linh hồn hết trí khôn ngươi “( Mt 22, 37). Cầu nguyện thì phải có sự nhất tâm , một lòng một dạ hướng về Thiên Chúa mới đẹp lòng Người và để có được sự nhất tâm ấy thì không chi bằng phải đến một nơi thanh vắng. Chúa Giêsu đã vào trong sa mạc , ở đó cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày. Các môn đệ của Ngài sau này cũng vậy , cũng cần phải có những giờ phút một mình diện đối diện với Thiên Chúa.
Sau khi được sư trụ trì chấp thuận, tôi về sửa sọan vài vật dụng cá nhân cần thiết và cũng không quên bức ảnh nhỏ Đức Mẹ Lộ Đức mà anh cả Truyện trên Sặt mới cho. Một nguyên tắc mà ngay từ khi được ơn trở lại , tôi quyết lòng tuân giữ đó là bám chặt lấy Đức Mẹ để đến với Chúa Giêsu ( Ad Jesum per Mariam ) . Để không mất lễ ngày chủ nhật, lại ở trong chùa được đúng bảy ngày, hôm đó tôi dự lễ nhất xong rồi nhờ một ông bạn chở ngay vào chùa. Ngồi với sư một lát, rồi được dẫn vào thất ở cuối vườn đìu. Đó là một căn phòng vách ván lợp tôn sàn tráng ximăng, rộng chừng chín mét vuông , có một cửa sổ. Nơi góc phòng có cái kệ, trên đó đặt khung ảnh của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, một chiếc đèn dầu nhỏ và bát nhang . Khi sư đã đi ra , tôi đóng cửa lớn, mở tung cửa sổ cho ánh sáng ùa vào rồi thay pyjama thắp nhang trên bàn thờ , vái lạy Đức Quán Âm Bồ Tát ba vái . Xong , nhẹ nhàng quay khung ảnh vào phía trong, cung kính đặt tấm ảnh nhỏ Đức Mẹ vào . Tôi khởi sự cuộc nhập thất bằng bản kinh Tessera nhưng thay vì chỉ đọc năm chục kinh như quy định tôi đọc cả ba mùa Vui Thương, Mừng. trong tư thế ngồi hoa sen kiết già. Nhập thất là một cơ hội thuận tiện để giúp ta quay về mình ( phản quan tự kỷ ) vì thế người tu không phải bận tâm về bất cứ công việc gì . Không lo chi đến cái ăn cái uống , thời sự quốc nội quốc ngọai, khách khứa gì cả…Những việc ấy tưởng như ai mà chẳng thích, chẳng muốn , thế nhưng con người ta vốn sống trong động , không lúc nào không lo, không tính. Lo chuyện này chưa xong lại lo chuyện khác , thậm chí ngay cả trong lúc ngủ cũng chẳng yên. Chúa nói chỉ có một việc phải lo ấy là lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Ngài , chớ nên lo lắng chi về ngày mai, ngày nào có sự lo lắng của ngày đó”( Mt 6, 33 – 34). Thế nhưng Nước Trời ấy lại tuyệt nhiên chẳng có hình tướng sắc màu thanh âm gì cả thì….biết đâu mà tìm ?….
Buổi sáng đầu tiên qua đi trong sự háo hức , cảnh vật dường như cũng chào đón , nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên các vòm cây, gió rì rào qua tán lá.. Thất nằm trên triền dốc thoai thỏai xuống một con lạch nhỏ . Mùa này nước chảy lặng lẽ ẩn khuất dưới những lùm cây dại. Còn trong những trận mưa lớn thì nó cuốn phăng ào ạt đục ngầu như một dòng thác cuồng lọan. Trong khung cảnh yên bình của buổi sáng xuân hôm ấy, có một vị khách đầu tiên đến viếng đó là chú chim bói cá khóac bộ áo xanh biếc. Chẳng biết chú ở đâu vụt đến , hót lên vài tiếng khanh khách, đậu yên lặng một lát rồi lại vút đi. Tôi để ý trong suốt mấy ngày ở đây ngày nào chú cũng đến rất đúng giờ , hot lên vài tiếng rồi lại vụt đi, chẳng biết đi đâu, có thể lại đến một bờ ao khỏanh suối nào đó …Trong những ngày nhập thất, chú chim bói cá ấy là một sinh vật độc nhất mà tôi gặp gỡ, cái việc chú thóang đến, thóang đi chỉ khiến cho không gian càng thêm trống vắng…
Sau mỗi thời kinh, mỗi kinh gồm đủ ba mùa Vui Thương Mừng , thời lượng chừng bốn mươi lăm phút thì tôi xả thế ngồi, làm vài động tác xoa bóp cho chân bớt tê cóng, ghi sổ tay ngày, giờ phút , tư thế..xong rồi lại tiếp tục thời kinh khác. Buổi sáng được ba thời kinh tức là đủ chín chuỗi và đang trong lúc xả thì có tiếng gõ cửa cốc cốc…biết là có người đem cơm đến. Cơm có canh đọt khoai, đậu phụ chiên xả ớt và một chén nấm xào. Tôi đã từng dự cơm chay nhiều lần với các sư trong chùa quanh vùng nhưng bữa ăn lần này ngon đặc biệt.. Sáng nay cố tình để bụng đói không ăn gì , bụng không lòng trống…thử hỏi ăn gì chẳng ngon ? Ăn xong đứng ngắm mông lung qua cửa sổ một lát rồi bắt đầu giờ kinh hành buổi trưa. Trời nóng bức ngột ngạt, tôi lựa một khu dâm mát nhất , chậm rãi vừa bước đi thành vòng tròn vừa lần hạt cho đủ ba chuỗi, tiếng lá khô lạt sạt dưới từng bước chân , xa xa có mấy đứa nhỏ lấp ló ( Về sau nghe sư nói chúng vào vườn chặt trộm tầm vông …!!)
Giấc ngủ trưa chập chờn, tỉnh dậy xem đồng hồ mới có hơn một giờ, trời không một chút gió. Đi xuống phòng tắm ở dưới dốc cách thất khỏang mấy mươi bước chân, niệm thầm chưa xong một chục kinh…Nước được dẫn ngầm từ lô cao su từ trên đầu dốc vào chùa thế nên khá mạnh. Sư cho đặt ống nước nhiều chỗ , mỗi đầu ống đều có van khóa mở rất thuận tiện. Nước mát và trong vắt, xối trên người tới đâu, mát rượi tới đó. Trời dần về chiều nghe gió đùa trên các dặng phi lao rì rào , bầu trời không một vẩn mây như cao hơn , lặng lẽ hơn…
Theo lệ thì những vị sư khi nhập thất họ chỉ điểm tâm chút đỉnh bữa sáng ( vài củ khoai lang, trái bắp…) , ăn bữa trưa, tối nhịn . Nhưng với tôi một kẻ ngọai đạo thì …đặc cách có một tô mì xào nấm rất ngon. Việc ăn uống đối với con người là một nhu cầu tối ư cần thiết , tuy nhiên người ta đã biến cái nhu cầu này thành một thứ khóai lạc và từ đó mà đã trở thành nô lệ cho dục vọng. Ăn xong tôi mắc sẵn mùng rồi đi đến đài Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vừa đi nhiễu ( Kinh hành ) quanh đài vừa lần chuỗi. Từ trong thâm tâm , tôi cho rằng Đức Bồ Tát Quán Âm cũng chính là Đức Mẹ Maria, hay nói cách khác Đức Maria là một hiện thân khác của Đức Bồ Tát Quán Âm. Có lẽ cần phải hiểu Đức Mẹ trong hình thức một Đại Bồ Tát như thế mới có thể nhận ra vai trò vô cùng lớn lao của Ngài trong Nhiệm Cục Cứu Độ ? Có mấy câu thơ sư Liêm đã cho khắc dưới chân tượng lời lẽ đơn sơ nhưng ý nghĩa rất hay thế này :
Ta có Mẹ Hiền Quán Thế Âm
Ngày đêm tưởng nhớ mãi âm thầm
Lòng ta khóai lạc, thân yên ổn
Thật đáng Mẹ Hiền Quán Thế Âm
Đi nhiễu không biết là bao nhiêu vòng , đến khi đủ ba kinh tức chín chuỗi thì trời đã nhá nhem tối , gió càng lúc càng có vẻ mạnh hơn khiến những ngọn cây phi lao mảnh dẻ ngả nghiêng , khung cảnh mang mang một vẻ hoang liêu gì đó, chưa từng cảm nhận…Ngồi trên ghế đá trước tượng một lát rồi quay về thất . Khi đi ngang qua bàn thờ Ông Địa, thấy có mấy đốm lửa lập lòe , chắc là ai đó mới thắp nhang. Vừa mở cửa bỗng tôi sởn tóc gáy, một luồng điện ớn lạnh chạy dọc từ ót xuống chân khiến rùng mình, trên bàn thờ, ánh lửa cứ từng chập phụt lên giống y như là …ma trơi. Định thần một lát , biết nguyên nhân là ở cái đèn dầu, tôi cầm xuống thổi vài ba hơi mới tắt. Mò kiếm đèn pin , hộp quẹt tôi tháo bóng, khêu bấc , châm đèn lại…Đốm lửa leo lét chỉ bằng hạt đậu , lặng lẽ sáng trong đêm cũng đủ khiến cho tôi cảm giác an tâm. Trước khi đi kinh hành tôi đã đóng chặt cửa sổ thế nên thất thành ra tối om và nóng. ngồi trong màn lại càng nóng hơn nhưng không biết làm sao được, nghĩ đến các vị ẩn tu trong rừng núi hang hốc vừa thương vừa cảm phục họ biết bao. Thử ngồi lên lần hạt nhưng vừa mệt vừa có cảm giác bất an thế nào đó, tôi lại nằm xuống suy nghĩ vẩn vơ, nhớ nhà, nhớ thằng cháu nội ba tuổi vẫn đòi nằm với ông xem tivi, nhớ đủ thứ không tên. Dường như chính những cái nhớ ấy đã dệt nên cuộc sống của mỗi người , hạnh phúc hay khổ đau cũng chỉ vì những cái nhớ ấy. Chợt tỉnh trong cái mớ nhớ, mê, mê nhớ ấy, tôi trấn tĩnh quyết chí ngồi dậy thóat ra khỏi cơn buồn ngủ , ngồi lên trong tư thế kiết già tiếp tục lần hạt. Tiếng còi xe từ ngòai quốc lộ chốc chốc như từ một thế giới nào đó xa thẳm vọng vào..Kết thúc thời kinh , trước khi đi vào giấc ngủ, trong tư thế quỳ chấp tay tôi dâng lên Đức Mẹ, Thánh Giuse quan thầy hai kinh thường đọc của Dòng Tận Hiến Đồng Công.
Giấc ngủ ngắn, chỉ khỏang ba tiếng nhưng khỏe và tỉnh táo. Nhìn đồngt hồ mới có hơn hai giờ , tôi ngồi lên ,làm dấu đọc kinh dâng ngày, kinh chịu lễ thiêng liêng rồi với tâm hồn phấn chấn đến góc phòng đi tiểu ( Ban đêm nhập thất không được mở cửa ra ngòai ) Tất cả đều lặng lẽ, nhưng trong cái lặng lẽ lúc này có vẻ như không giống cái lặng im bằn bặt đêm khuya khi mà vạn vật như đang đi vào cõi chết…!!! Giờ đây mặt trời vẫn còn ở đâu đó tít mù trong không gian , ánh bình minh chưa hề ló dạng nhưng chắc chắn là nó đang đến, tòan thể vạn vật đều có thể cảm nhận điều ấy và tôi cũng vậy, tôi đang chờ đón một ngày mới, ngày nhập thất thứ hai./.
Trà cổ – Đồng nai 2010
Phùng Văn Hóa