Dù không còn xa lạ, nhưng mỗi khi nghe bài hát Gánh hàng rong của Lê Quốc Dũng, tôi lại càng thấm thía hơn và cảm nhận mỗi lần khác hơn, mới hơn về sự vất vả, nhọc nhằn, nắng mưa, mồ hôi và sức nặng của những gánh hàng rong.
Bởi trong tôi không dừng lại chỉ như đang thưởng thức một bản nhạc, mà như đang dâng lên niềm yêu mến và cảm phục dành cho những anh chị em dù nghèo, dù tảo tần nhưng luôn muốn sống bằng chính sức lao động và bằng sự lương thiện của mình qua những bước chân giữa phố thị đầy nhộn nhịp, đầy tiếng ồn, đầy nắng mưa sương gió, hay những tiếng rao có lúc nghe như khản giọng, như khàn đục nơi cổ họng…
Lời bài hát còn đưa tôi về lại ký ức của chính mình, dẫu đã mấy chục năm trôi xa, nhưng vẫn hằn trong tôi vô cùng sống động. Vì thế, đã có lúc tôi rung lòng đến rưng rưng khóe mắt…
Ngày ấy, sau khi hết phổ thông trung học, một mình từ chốn quê vào Sài Gòn, tôi chẳng khác “thằng khờ ra tỉnh”. Mọi thứ xa xôi, lạ lẫm…
Đến ở trọ trong một hẻm nhỏ gần ga Sài Gòn, quận 3, mà hàng ngày trên đường đi học, bắt đầu từ căn gác trọ đến trường, không ngày nào là tôi không gặp những khuôn mặt bán hàng rong quen thuộc.
Đó chính là những thân gầy phải cất từng bước chân, từng tiếng hát lạc lỏng và vất vả vì cuộc mưu sinh dường như rất mệt mỏi, có lúc tôi cảm nhận như những đôi chân ấy bước đi xiêu vẹo, nhưng họ lại không dám thể hiện sự mệt mỏi. Mỗi ngày bàn chân người bán hàng rong đi bao nhiêu cây số? Có lẽ chính họ cũng không thể đếm nổi. Chỉ biết là nhiều lắm. Ngày lại ngày họ cứ đi và đi. Đi giữa biển người chen lấn, ồn ào, đầy bụi khói…
Hoặc những người đàn ông, đàn bà đứng tuổi từng ngày oằn lưng đẩy hay đạp những chiếc xe thô sơ có mặt trên khắp đường phố, băng qua những ngã phố, nhấp nhô cạnh những quán xá ầm ĩ, bóng liêu xiêu dưới những tòa cao ốc, rồi lại có lúc đi sâu trong từng con hẻm hay băng qua mọi khu xóm dù hẻo lánh nhất… Họ vẫn miệt mài với gánh nặng mưu sinh, bất kể nắng mưa, lạnh ấm…
Họ chỉ dừng bước khi tiếng rao có người đáp lại. Ai đó gọi giật phía sau lưng, không phải bằng danh xưng “ông”, “bà”, “anh”, “chị” mà bằng tên một món hàng nào đó. Như biết số phận của mình, người bán rong không bao giờ phiền hà về điều đó. Được gọi để trao đi một món hàng và nhận lại một số tiền, niềm vui của người bán rong đã đủ lớn. Họ chỉ có nụ cười trên môi, cám ơn người vừa gọi mình, dẫu nhiều mệt nhọc, thậm chí có lúc bụng đang cồn cào vì đói.
Nơi cái “cửa hàng bán rong” ấy có đủ mọi thứ. Trên cùng một chiếc xe đẩy hay một quang gánh người ta có thể dễ dàng chọn lựa từ miếng thịt, con cá đến bịch chè, cục kẹo…, Những món hàng rong họ bán rất khác nhau, rất đa dạng. Chúng chẳng khác cái chợ thu nhỏ.
Số lớn trong những chủ nhân của những cái “cửa hàng rong” ấy là những người tha phương. Họ đến từ nhiều miền đất khác nhau. Hàng ngày với mớ hàng rong của mình nuôi sống cả nhà, lo cho con cái đến trường và chắc bóp gởi về quê nhà như gởi cả tình yêu, gởi cả nỗi nhớ sâu đậm dành cho chốn quê, nơi mà từ đó họ trưởng thành và ra đi.
Chính tôi, đời sinh viên mà, nhiều khi đi ngang những quán xá to, sang trọng, những nhà hàng đầy những người ôm cặp táp, chân đi giày hiệu… mà vội đạp xe nhanh, không dám nhìn… Sợ phải thèm những thứ chưa từng dám mơ…
Và như thế, thằng sinh viên năm nào trở thành “bạn hàng” trung thành của các chị, các mẹ đẩy những xe hay gánh những quang gánh hàng rong.
Đời sinh viên gần gũi người bán hàng rong, tôi thấm thía nỗi vất vả của họ. Họ phải rời nơi trọ qua đêm của mình từ khi còn tối mịt, và cũng đến tối mịt mới lặn lội trở về nơi gác trọ.
Suốt mấy năm gần gũi những người bán hàng rong, nhìn nhịp điệu bàn chân mỗi khi quay về xóm trọ của họ giữa lúc phố xá đã lên đèn rực sáng tự bao giờ, tôi có thể biết suốt ngày hôm ấy, họ có mua may bán đắt hay không!
Nếu may mắn, đôi chân hớn hở của họ đi mà như những bước nhảy. Về đến nơi trọ, dưới cái bóng điện tờ mờ chỉ đủ sáng một vùng đêm u uẩn, họ bỏ tất cả số tiền kiếm được sau một ngày bươn bả ra nền nhà, chậm rãi đếm từng tờ như kiểm chứng thành quả lao động lương thiện của mình.
Những tờ bạc nhàu được những bàn tay thô ráp vuốt phẳng phiu một cách cẩn thận. Không thể nhẩm tính được những tờ bạc đã thấm bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Chỉ biết, những tờ bạc ít ỏi ấy, có thể giúp họ chống đỡ cho sự sống của cả gia đình qua bao nhiêu năm tháng.
Nếu bị lỗ hay phải gánh hàng về, đôi chân họ như nặng trĩu, như lê đi. Rồi ngày mai, họ sẽ phải thức sớm hơn, sẽ rời gác trọ trong khi cả thành phố còn say giấc.
Nhất là những ngày mưa dầm, họ ngồi thừ người dưới mái hiên nhà trọ, đôi mắt nhìn xa xăm. Tôi hiểu họ đang lo cho bữa cơm của gia đình, tiền học phí của thằng cu tí, tiền điện, tiền nước, tiền thuê nhà trọ đã gần hết tháng….
Cuộc đời những người bán rong đáng được yêu thương, quý mến, đáng trân trọng. Họ thanh bạch, đáng chúng ta học tập. Bởi dù nghèo, họ không bán rẻ lương tâm…
Rồi những ngày thương đau của cả đất nước vì dịch giã, lệnh cấm ra đường được ban ra. Ai cũng ngỡ, sau những ngày ấy, mọi thứ sẽ yên hàn, rồi những quang gánh, những chiếc xe hàng rong lại tiếp tục lên đường…
Nhưng không. Bệnh tật cứ tiến thẳng, đánh thẳng vào sự sống và đời sống của con người tựa hồ vũ bão. So với ngày căn bệnh bắt đầu thâm nhập, nay nó đã lấy đi sinh mạng của bao nhiêu đồng bào, và làm cho điêu đứng không trừ một ai.
Thế là lệnh “bất xuất bất nhập” tăng dần thời gian. Niềm hy vọng được ra khỏi nhà bị lung lay. Nay số ngày đôi chân bị chôn dính cứng trong căn nhà chẳng những gia hạn mà còn xiết chặt. Thế là niềm hy vọng đã thực sự vỡ.
Biết bao nhiêu người cha, người mẹ, người chị, người em với cái “cửa hàng bán rong”, bình thường đã quá khổ sở, đã quá chật vật, nay sẽ nên khổ sở và khắc nghiệt đến mức nào?
Trong những ngày cả nước bệnh tật, nhất là ở những vùng tâm chấn lớn chưa từng có như Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai, Long An…, quá nhiều những mãnh đời long đong trở nên điêu đứng, trở nên thiếu thốn tàn khốc, có biết bao nhiêu những khuôn mặt vốn thường ngày đã tất bật âu lo, nay càng như khắc sâu thêm nỗi hoan mang, sợ hãi của những người cha, người mẹ, người chú, người chị bao năm dãi dầu với những quang gánh, những chiếc xe hàng rong…
Miền Nam nói chung, Sài Gòn nói riêng, kể từ năm 1954 đã không ngừng dang tay đón nhận anh chị em đồng bào của mình từ khắp nơi đổ về, trong đó, Sài Gòn, Bình Dương không chỉ đón nhận trong yêu thương và đùm bọc những con người từ miền ngoài mà còn rất nhiều anh chị em phía Tây của mình. Thật nghịch lý, phía Tây của miền Nam, dù là vựa lúa lớn của cả nước, nhưng người ở đây vẫn phải ra đi cầu thực…
Rồi những ngày qua, khi những sợi dây, những rào chắn không ngừng băng bó và cản lối nhiều nơi, và ngày càng xiết chặt, mọi người bị “đông đặc” trong chính nơi ở của mình, thì đoàn người tang thương vì khổ sở, vì hoang mang, dắt díu nhau, bồng bế nhau tháo chạy khỏi Sài Gòn, khỏi miền Nam bằng đủ mọi cách, thậm chí phải đi bộ nhiều ngàn cây số. Miền Nam, nơi tưởng chừng chỉ đến, nay đành trơ mắt nhìn đồng bào mình thất thểu ra đi.
Trong đoàn người tất ta tất tả ấy, chắc chắn không thiếu những người bán hàng rong. Bình thường đã phải chạy cơm từng bữa, nay trong thời khắc đau thương, họ làm gì có cái cho vào bụng, có cái để nuôi đám con như những chú chim non há mồm chờ thức ăn… Nguy hiểm vì cái đói, cái khát dọc đường, nguy hiểm vì tai nạn, vì bệnh tật, vì truyền nhiễm dịch tễ…, họ vẫn bất chấp. Ra đi về lại quê nhà còn có thể có cơ may để sống. Chốn quê nhà, bên cạnh người thân, lay lất sống, vẫn có thể cầm cự qua ngày…
Hình ảnh người bán rong trên hè phố, một phần kỷ niệm thời trẻ trung của đời tôi. Tôi nhớ họ. Tôi yêu họ. Giữa một hoàn cảnh đầy chết chóc, tôi muốn gọi tên họ, gọi tên từng người một, như gọi chính người thân của mình…
Xin cám ơn những anh chị em bán hàng rong. Một hình ảnh nghèo khó, chân phương, lam lũ, bình dị, rất đời thường, rất gần gũi đã góp phần nuôi dưỡng trong tôi cả một khung trời kỷ niệm triệu thương, triệu nhớ…
Anh chị em ơi! Những người bán hàng rong ơi!…
Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG