1/ Thánh Bernard thành Clairvaux đan sĩ Xitô và tiến sĩ Hội Thánh
Thánh Bernard thuộc dòng dõi quí tộc và chào đời tại lâu đài Fontaine-les-Dijon ở miền Đông Bắc nước Pháp.
Cuộc đời thánh nhân (1090-1153) là trang sử tuyệt đẹp, đẹp cả về phương diện thiêng liêng lẫn nhân bản. 63 tuổi thọ với 41 năm sống đời đan tu và 38 năm làm Viện Phụ đan viện Xitô ở Clairvaux, thánh Bernard đánh dấu giai đoạn vàng-son của cuộc sống khổ-chế và nhiệm-nhặt.
Thật thế, vào năm 1112, Bernard (22 tuổi) dứt khoát từ bỏ vinh-hoa phù-du thế trần để ẩn mình trong nếp sống đan-tu. Điều đáng chú ý, Bernard cùng lúc kéo theo đoàn hùng binh – thuộc đủ giai tầng xã hội già trẻ – gồm khoảng 30 người ra đi tìm kiếm Tuyệt Đối và Thinh Lặng .. Trong số này có 4 anh em ruột của Bernard (Barthélémy, André, Guy, Nivard) cộng với người cậu Gaudry và sau đó thêm thân phụ Tescelin cùng em gái Hombeline. Tất cả hăng say chọn nếp sống cho THIÊN CHÚA và vì THIÊN CHÚA theo sát tinh thần quy luật thánh Biển-Đức (480-547), Ông Tổ đời đan tu.
2/ Thánh Bernard ca tụng danh thánh MARIA
”Trinh Nữ ấy tên là MARIA” (Luca 1,27).
MARIA có nghĩa là Sao Biển – Stella Maris. Tên gọi Sao Biển vô cùng xứng hợp với Đấng vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ. Ví Đức MARIA với thiên-thể là sánh ví tuyệt hảo, bởi lẽ, tinh-tú phát ra các luồng sáng mà vẫn không bị suy giảm thế nào, Trinh Nữ MARIA cũng không bị thiệt hại gì, khi sinh Con như thế. Cũng vậy, tia sáng không làm giảm bớt sức chiếu tỏa của ngôi sao thế nào, Người Con sinh ra cũng giữ nguyên nét toàn vẹn Trinh Nữ của Mẹ mình như thế. Đức Mẹ đúng là Vì Sao cao sang nhà Giacóp, chiếu sáng khắp vũ trụ, rạng soi các tầng trời và xuyên tận vực thẳm. Đức Mẹ cũng sáng soi toàn trái đất, sưởi ấm linh hồn hơn là thể xác, phát huy nhân đức và tiêu diệt tật xấu. Đức Mẹ là Vì Sao huy hoàng mọc lên từ biển cả mênh mông, chói lọi nhờ công đức và rực sáng vì gương lành ..
Hỡi bạn là người đứng xa đất chắc, bạn thấy mình bị lôi cuốn bởi sóng trần gian giữa bao phong ba bão táp, bạn đừng rời mắt tia sáng của Vì Sao đó nếu bạn không muốn chết chìm.
Nếu mà cơn cám dỗ nổi lên, nếu mà đá ngầm nhô lên trên mặt đường bạn, bạn hãy nhìn sao, bạn hãy gọi Mẹ MARIA.
Nếu mà bạn lao đao trên các đợt sóng kiêu ngạo, tham lam, nói hành, đố kỵ, bạn hãy nhìn sao, bạn hãy gọi Mẹ MARIA.
Nếu mà tính giận, tính keo kiệt, tính thèm nhơ nhớp làm lung lay con thuyền hồn bạn, bạn hãy ngước mắt nhìn Mẹ MARIA.
Nếu mà bị xáo trộn vì các tội tầy đình của bạn, xấu hổ vì những ô nhục của lương tâm bạn, kinh hãi vì sợ bị xét xử, bạn bắt đầu đắm mình trong sầu khổ, rơi dần xuống hố tuyệt vọng, bạn hãy nghĩ đến Mẹ MARIA.
Trong nguy nan, lúc sầu khổ, khi băn khoăn, bạn hãy nghĩ đến Mẹ MARIA, bạn hãy kêu cầu Mẹ MARIA.
Ước gì danh thánh MARIA không bao giờ lìa xa môi miệng bạn, tách rời khỏi con tim bạn; và để được Đức Mẹ thương cầu bầu trợ giúp, bạn đừng quên bắt chước gương Đức Mẹ.
Bước theo Đức Mẹ, bạn không lạc hướng; kêu cầu Đức Mẹ, bạn không thất vọng; lĩnh ý Đức Mẹ, bạn không sai lầm.
Nếu Đức Mẹ đỡ bạn, bạn sẽ không ngã; nếu Đức Mẹ che chở bạn, bạn sẽ không sợ; nếu Đức Mẹ dìu bạn, bạn sẽ không mệt; nếu Đức Mẹ ủng hộ bạn, bạn sẽ đạt đến đích; như thế, nhờ kinh nghiệm cá nhân, bạn sẽ công nhận lời thiên sứ thật đúng: ”Trinh Nữ ấy tên là MARIA” (Luca 1,27).
3/ Thánh Bernard suy niệm về đức trinh-khiết và lòng khiêm-tốn của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA
Tổng Lãnh Thiên Thần Gabrie được THIÊN CHÚA sai đến với Trinh Nữ đính hôn với một người tên là GIUSE.
Trinh Nữ là Ai mà lại vừa đáng kính đến độ Thiên Thần phải kính cẩn cúi chào, vừa khiêm-nhu đến độ đính hôn với người thợ mộc? Thật là tổng hợp tuyệt diệu giữa đức trinh-khiết và lòng khiêm-nhu! Chắc chắn THIÊN CHÚA thật hài lòng với linh hồn trong đó sự khiêm-nhu nâng cao đức trinh-khiết và đức trinh-khiết trang điểm cho sự khiêm-nhu.
Nhưng tôn kính nào mà bạn nghĩ là sẽ thật tương xứng với sức sinh con như lời chúc tụng sự khiêm-nhu và sự sinh con lại cung hiến cho đức trinh-khiết? Rõ ràng bạn nghe Cô là Trinh Nữ. Bạn cũng nghe Cô rất khiêm-tốn. Nếu bạn không thể bắt chước đức trinh-khiết đã từng khiêm-nhu thì bạn hãy bắt chước sự khiêm-nhu đã từng trinh-khiết.
Đức trinh-khiết thật đáng ca ngợi nhưng sự khiêm-nhu lại rất cần thiết.
Giữ trinh-khiết chỉ là lời khuyên nhưng sống khiêm-tốn lại là qui tắc. Về đức trinh-khiết có lời nói rằng: Hãy đạt đến trinh-khiết người nào có thể đạt được! Nói cách khác, ai giữ được thì giữ! Nhưng sự khiêm-nhu thì lại là qui luật như lời Đức Chúa GIÊSU phán: ”Ai không trở nên như con trẻ này thì sẽ không vào được Nước Thiên Đàng” (Mátthêu 18,3-4).
Vậy thì, đức trinh-khiết được tán thưởng nhưng đức khiêm-nhu lại là điều bắt buộc.
Nói tóm lại, bạn có thể được cứu rỗi mà không cần giữ mình đồng trinh, nhưng bạn không thể được cứu rỗi nếu bạn không sống khiêm nhường. Tôi có thể khẳng định rằng: Đức Mẹ MARIA vẫn có thể làm vui lòng Chúa với lòng khiêm-tốn khi than khóc vì đã đánh mất đức trinh-khiết; nhưng tôi dám cả quyết rằng: nếu không có lòng khiêm-tốn thì đức trinh-khiết của Đức Mẹ MARIA chả làm Chúa hài lòng bao nhiêu, như lời Chúa phán: ”Nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi nếu không phải là nơi người khiêm-tốn?”, Isaia 66,2.
Chúa nói rõ: nơi người khiêm-tốn chứ không phải nơi cô trinh nữ! Vậy thì, nếu Trinh Nữ Rất Thánh MARIA không phải là người khiêm-tốn thì ”Chúa Thánh Thần sẽ không thể đến nghỉ ngơi và bao trùm Trinh Nữ”. Nếu Chúa Thánh Thần không thể đến thì Ngài không thể làm cho Trinh Nữ trở thành Mẹ. Thật thế, làm sao Trinh Nữ có thể thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà không có Đức Chúa Thánh Thần được?
Như vậy, điều hiển nhiên chính là, sở dĩ Trinh Nữ được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần chính vì lòng khiêm-tốn của Trinh Nữ, như lời Trinh Nữ làm chứng rằng: ”THIÊN CHÚA đã đoái nhìn đến phận nữ-tỳ hèn-mọn”, hơn là vì đức trinh-khiết của Trinh Nữ. Và nếu Trinh Nữ làm Chúa vui lòng vì đức trinh-khiết của mình thì thật ra Trinh Nữ đã thụ thai nhờ đức khiêm-tốn. Như thế có thể kết luận rằng: Chính đức khiêm-nhu đã tô điểm khiến cho cả đức trinh-khiết cũng trở thành thi-vị dịu dàng.
4/ Thánh Bernard bẻ gãy sức kháng cự của Công Tước Guillaume X nhờ sức mạnh của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể
Ngay lúc sinh thời, thánh Bernard làm không biết bao nhiêu là phép lạ chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền phần xác cũng như phần hồn. Đặc biệt thánh nhân làm trung gian giảng hòa giữa các vua chúa trần gian cũng như giữa lòng Giáo Hội Công Giáo.
Vào tiền bán thế kỷ XII, Giáo Hội Công Giáo La-Mã có đến 2 vị Giáo Hoàng, 1 thật và 1 giả. Năm 1130 Đức Innocenzo II (1130-1143) được bầu lên cách hợp pháp. Trong khi Đức Anacleto II (1130-1138) là vị tiếm quyền nhưng được một số thủ lãnh đời của Âu Châu lúc bấy giờ ủng hộ. Sự có mặt của 2 vị Giáo Hoàng gây hoang mang hỗn độn và chia rẽ giữa lòng cả hai phía đạo và đời.
Một trong các người chống đối quyền cai trị hợp pháp của Đức Innocenzo II là Công tước Guillaume X thủ lãnh miền Aquitaine ở Đông Nam nước Pháp. Công tước cũng dùng uy quyền riêng truất phế một số Giám Mục trong vùng. Thấy tình thế thê thảm, nhiều người xin thánh Bernard – Viện Phụ Clairvaux – can thiệp giảng hòa.
Năm 1135, thánh Bernard đích thân đến Aquitaine mở cuộc họp với sự có mặt của các vị bản quyền cả đạo lẫn đời. Mặc cho bao nhiêu thương thuyết, cuộc họp vẫn bế tắc. Trước khi khởi đầu cuộc họp khác, thánh Bernard quyết định cử hành Thánh Lễ. Công tước Guillaume có mặt nơi cửa nhà thờ. Sau khi Truyền-Phép và trao bình an, Viện Phụ Bernard như được sức mạnh thần linh biến đổi hẳn. Gương mặt ngài rực sáng như lửa, đôi mắt ngài long lanh và môi miệng ngài sẵn sàng mở cuộc tuyên chiến. Thánh Bernard cầm đĩa thánh có Mình Thánh Chúa rồi tiến thẳng đến trước mặt Công tước Guillaume. Thánh nhân dõng dạc tuyên bố:
– Chúng tôi van xin ngài, nhưng ngài khinh khi ngoảnh mặt. Một lần khác, các tôi tớ THIÊN CHÚA, quy tụ một số đông trước mặt ngài và khẩn cầu ngài nghe lời. Nhưng ngài giả điếc làm ngơ. Giờ đây, chính Quí-Tử của Đức Nữ-Trinh, Chúa chúng ta, Thủ-Lãnh và là Tôn-Sư của Giáo Hội Công Giáo mà ngài bách hại, đang đứng trước mặt ngài. Nơi bàn tay tôi đang có mặt Vị Thẩm Phán kết tội ngài, Đấng mà mọi loài phải phục lạy thờ kính: trên trời, dưới đất và trong hỏa ngục. Tôi xin lập lại, đây là Vị Thẩm Phán có quyền xét xử ngài, Đấng mà một ngày kia linh hồn ngài phải trả lẽ mọi điều. Thử hỏi giờ đây ngài còn dám khinh thường, xem Đấng-Chí-Công cũng chả hơn gì các tôi tớ Chúa không???
Mọi người có mặt kinh khiếp lặng im nín thở, chờ đợi sức phản ứng vũ bão của Công tước Guillaume. Nhưng sự thật trái lại hẳn. Bị xúc động sâu xa, ông đứng bất động như trời tròng, miệng lưỡi cứng đơ. Rồi toàn thân ông run lẩy-bẩy như lên cơn động kinh và ngã lăn đùng dưới đất. Thánh Bernard dùng chân chạm đến người công tước và bảo ông đứng lên. Bằng giọng cương quyết, thánh nhân nói thêm:
– Đức Giám Mục Poitiers mà ngài đuổi khỏi ngai tòa đang có mặt tại đây. Xin ngài đến giao hòa với vị Giám Mục và hãy để vị Giám Mục trở về với giáo phận. Ngài sẽ làm đẹp lòng THIÊN CHÚA biết bao khi ngài trao trả lại mọi danh dự cho vị Giám Mục. Xin ngài hãy hiệp nhất mọi con dân dưới quyền ngài và hãy xóa tan mọi chia rẽ do ngài gây nên. Xin ngài hãy tùng phục quyền bính hợp pháp của Đức Thánh Cha Innocenzo II như toàn thể Giáo Hội đang tùng phục Vị Chủ Chăn.
Trước lời lẽ trang trọng của thánh Bernard và nhất là trước sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể, Công tước Guillaume đứng im không dám nhúc nhích. Ông thật sự ăn năn thống hối. Sau khi thi hành mọi chỉ thị của thánh Bernard, ông từ bỏ vinh quang thế trần và ẩn mình nơi thanh vắng để sống đời chay tịnh hãm mình. Năm ấy công tước Guillaume tròn 38 tuổi.
5/ Thánh Bernard làm phép lạ liên quan đến anh họ tên Josbert, Tử-tước vùng Ferté-sur-Aube
Tử-tước Josbert lâm trọng bệnh, không nói được và bị bất tỉnh. Con trai cùng bạn bè tử-tước vô cùng đau đớn khi thấy một người từng sống trong nhung lụa giàu sang lại ra đi về thế giới bên kia khi chưa được xưng tội và nhận lãnh Của-Ăn-Đàng. Gia đình tức tốc báo tin cho thánh Bernard biết. Thánh nhân đến ngay. Bên giường người bệnh, thánh Bernard trịnh trọng tuyên bố:
– Người này bóc lột cướp của các thánh đường, ức hiếp người nghèo và xúc phạm đến THIÊN CHÚA. Ông phải trả lại cho nhà thờ những của cải ông tước đoạt và xóa bỏ các dịch vụ bất công ông áp đặt trên người nghèo, chỉ khi đó ông mới nói được để có thể dọn mình xưng tội và chịu các Bí Tích sau cùng.
Mọi người kinh ngạc trước lời tuyên bố của thánh Bernard. Lòng tràn đầy sự tin tưởng và niềm vui mừng, gia đình tử-tước Josbert hứa thực hiện ngay những điều thánh Bernard đòi buộc.
Về phần thánh Bernard ngài lặng lẽ cầu nguyện cho anh họ. Sau đó thánh nhân chuẩn bị dâng Thánh Lễ. Lúc ngài vừa bước lên bàn thờ thì một sứ giả chạy đến báo cho thánh Bernard biết là tử-tước Josbert nói được và xin mời Viện Phụ Bernard đến ngay. Dâng Thánh Lễ xong, thánh Bernard đến thăm người bệnh. Tử-tước Josbert tiếp đón thánh Bernard với lòng tri ân thống hối. Ông dọn mình xưng tội và lãnh nhận các Bí Tích sau cùng. Ông sống thêm được vài ngày nữa, thời gian đủ để ông thực thi mọi chỉ thị của thánh Bernard. Sau cùng tử-tước Josbert ra đi về Nhà Cha trong an bình thanh thản.
… Tôi đã là một đứa trẻ nhiều may mắn từ lúc sinh ra, đã nhận được một linh hồn lương hảo; hay đúng hơn, vì là lương hảo, tôi đã được nhập vào một thể xác không vết nhơ. Nhưng tôi vẫn hiểu rằng: Đức Khôn Ngoan, tôi không thể có được, nếu THIÊN CHÚA chẳng ban cho tôi, – biết được ơn này do ai ban tặng, thì cũng đã khôn ngoan phần nào rồi – nên tôi hướng về THIÊN CHÚA và cầu nguyện, tôi hết lòng thưa lên: ”Lạy Thượng Đế của bậc tổ tiên, lạy THIÊN CHÚA từ bi lân luất, Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật, dùng sự khôn ngoan Chúa mà cấu tạo con người, để con người làm chủ mọi loài Chúa dựng nên, và sống sao cho thánh thiện công chính mà chỉ huy cả vũ trụ này, cùng được một tâm hồn ngay thẳng mà phân biệt phải trái. Xin rộng ban cho con Đức Khôn Ngoan hằng ngự bên tòa Chúa. Xin đừng đuổi con đi mà chẳng nhận làm con” (Sách Khôn Ngoan 8,19-21 + 9,1-4).
(Bernard de Clairvaux, ”A La Louange De La Vierge Mère”, Les Éditions du Cerf, 1993 / Odette Philippon, ”Bernard de Clairvaux – Message de tous les temps”, Pierre Téqui Éditeur, 1990)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Nguồn: RV