“Người con của những giọt nước mắt sẽ không bao giờ hư hỏng”
Monica, một Thánh nữ được các bà mẹ đặc biệt tôn kính bởi những lời nguyện cầu bền bỉ cho sự hồi tâm của đứa con trai bướng bỉnh của mình, Augustine, được sinh ra trong một gia đình ki-tô giáo ở Thagaste, Bắc Phi năm 333, và mất tại Ostia, gần Rome, năm 387. Bà lập gia đình khi còn trẻ với một quan chức chính phủ, Patricius, không phải là tín đồ Ki-tô giáo, và tính khí cộc cằn khó chịu. Nhưng bà vẫn cam chịu những gánh nặng gia đình một cách nhẫn nại, và cuộc sống đoàn tụ tương đối thuận hòa. Ba người con được ra đời, Augustine, Navigius, và một con gái, Perpetua.
Augustine, con trai cả, lỗi lạc, theo sự nhận xét của chính mình, là một thanh niên lười biếng và trụy lạc mà cách ứng xử tệ bạc của Ngài đã làm cho mẹ Ngài vô cùng đau khổ, nhất là sau khi Ngài bỏ học ở Madaura và tới Carthage. Mặc dù Patricius trở thành một Ki-tô hữu không bao lâu trước khi chết, Augustine vẫn đắm đuối truy hoan. Khi là một sinh viên mười chin tuổi, đã gia nhập phái dị giáo Manichaean. Khi Ngài bắt đầu hùng hồn tuôn ra những tà thuyết, Monica đã trở nên hoảng sợ, và đã tăng cường mọi nỗ lực của mình để đem Ngài đến với Đức Ki-tô. Trong Confesions, Augustine đã tường thuật chi tiết giấc mơ của Monica mà đã an ủi, khích lệ bà:
“Trong giấc mơ, chính bà đã thấy mình đứng trên một loại thước bằng gỗ, và thấy một thanh niên thông minh đang tiến lại gần bà, hân hoan và mỉm cười với bà, trong lúc bà đang đau khổ và cúi mình với tâm trạng muộn phiền. Nhưng khi cậu ta yêu cầu bà cho biết nguyên nhân gây phiền muộn và hàng ngày đầy vơi nước mắt (không phải để biết về bà, mà để hướng dẫn bà, vì là theo cách tưởng tượng), và khi bà trả lời rằng đó là sự suy sụp của linh hồn bà mà bà đang than khóc, cậu ta ngỏ ý mời bà đến một nơi nghỉ ngơi hài lòng, thỏa mãn và bảo bà hãy trông chờ rằng nơi mà bà ở đó cũng là nơi tôi ở. Và khi bà trông chờ tôi đang đứng gần bà trên cùng một cây thước.” (Confessions, Book III, 9. 14).
Trong suốt thời gian cầu nguyện với tinh thần thống khổ cho con trai mình, Monica đã thỉnh cầu một vị giám mục, người mà bản thân cũng đã là một thành viên của hệ tôn giáo Manichaean trước khi trở thành một Ki-tô hữu. Ông đã từ chối can thiệp với Augustine, một người mà, vị giám mục này đã để ý một cách chính xác, là không cởi mở để nghe chân lý. Bà đã năn nỉ đến hết nước mắt, nhưng ông vẫn khước từ. Tuy nhiên vị giám mục này an ủi Monica rằng “đứa con của những giọt nước mắt đó sẽ không bao giờ hư hỏng”, điều mà bà đã nắm bắt như một dấu hiệu của Thiên Chúa. Cho dù Ngài tiếp tục chín năm trong những tà thuyết, Monica đã theo Augustine tới Rome và sau đó tới Milan trong một nỗ lực cứu vớt con trai của mình thoát khỏi những lỗi lầm. Ở Milan, bà đã gặp giám mục Ambrose, người mà đã giúp đỡ dẫn dắt Augustine trở về với đức tin chân chính.
Vài tháng sau khi hoán cải, Augustine, Monica và Adcodatus dự định quay trở lại Phi Châu, nhưng Monica đã qua đời tại Ostia, thành phố cảng cổ đại của Rome, và bà đã được mai táng ở đó. Augustine vô cùng cảm kích trước cái chết của mẹ mình mà Ngài đã được truyền cảm hứng để viết Confessions, “vô cùng viên mãn những gì mẹ tôi đã mong muốn ở tôi – mỹ mãn trong những lời nguyện cầu đã giành cho bà qua những lời thú tội này của tôi hơn những lời nguyện cầu của tôi côi cút.” (Book IX. 13. 17).
Một nhận xét về cuộc sống ban đầu, thời thơ ấu, hôn nhân, những ngày cuối cùng và cái chết của bà đã được trình bày trong Confessions Book IX, 8-12. Ngài đã thể hiện lòng biết ơn của mình đối với mẹ:
“Tôi sẽ không nói về những món quà của bà, mà nói về món quà của Người ở cùng bà; vì bà đã không tự mình làm ra và cũng không tự mình đào tạo. Người đã sáng tạo bà và cả cha lẫn mẹ của bà cũng không biết những gì mà loài người đã được xuất thân từ chúng. Và đó là chiếc roi của Đức Ki-tô con Người, sự trừng phạt của Con Một Người để đào tạo bà trong ơn kính sợ của Người trong ngôi nhà của một trong những người trung thành của Người, là một thành viên hoàn hảo của Hội Thánh Người.” (IX. 8.7)
Những thế kỷ sau, xác của Monica đã được cải táng ở Rome, và cuối cùng di hài của bà đã được chôn cất ở nơi thờ tự riêng phía trái bàn thờ cao của Nhà Thờ Thánh Augustine ở Rome.
Jos. Tú Nạc, NMS