Câu chuyện xảy ra tại Boémia, liên bang Tiệp Khắc, thời kỳ bị quân Đức quốc xã chiếm đóng. Dư luận thế giới nhất loạt ủng hộ nhân dân Tiệp Khắc. Một số người Tiệp yêu nước anh dũng kháng chiến, chống lại quân xâm lăng. Lòng căm tức quân thù tăng cao đến độ, họ ghét tất cả người Đức, không phân biệt một ai. Cô giáo Đức tại Boémia kể lại:
Tháng 9 năm 1938, từ ngày 13 đến ngày 30, thành phố Eger bị đặt trong tình trạng giới nghiêm. Dân Tiệp cương quyết chống lại kẻ thù xâm lăng.. Tất cả mọi giáo viên bị bắt buộc phải đến trường trình diện mỗi ngày, mặc dầu trường học vắng bóng học sinh.
Vào một buổi sáng trời thật đẹp, sau khi trình diện, tôi ra về. Trên đường, tôi bỗng trông thấy một nhóm người hùa nhau đánh đập một thanh niên. Đường phố vắng tanh. Người làm bánh mì, xuất hiện trước cửa tiệm la lên:
– “Chết rồi, bây giờ đến lượt cô giáo sẽ bị túm đánh”.
Nghe vậy, tôi không còn hồn vía nào nữa, chỉ biết nắm chặt trong tay cỗ tràng hạt có ảnh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và ảnh Thánh Cả Giuse. Còn đang sợ hãi không biết nên tiếp tục, hay quay trở lại trường học, thì một người đàn ông Tiệp hùng hổ, nhẩy bổ đến bên tôi. Ông ta giận dữ, cầm báng súng giáng mạnh xuống vai tôi. Ông vừa đập vừa hét lớn: “Mày phải chết, cái con mẹ người Đức này!”.
Ngay lúc đó, bỗng xuất hiện một cụ già dáng điệu đạo mạo đáng kính, có bộ râu và mái tóc bạc trắng. Cụ già đội chiếc mũ có vành rộng và khoác áo choàng. Cụ già nói với người Tiệp:
– “Anh không được phép đánh đập cô ta. Cô có mặt ở đây vì các trẻ em và để giúp đỡ tất cả mọi người”.
Nghe cụ già nghiêm nghị nói thế, người thanh niên Tiệp cầm súng hoảng hốt bỏ chạy như một người điên.
Cụ già lạ mặt cầm lấy tay tôi và dạy tôi đọc một kinh kính Đức Mẹ của thánh Grignion de Montfort. Cụ cũng khuyên tôi luôn mang trong mình ảnh vảy phép lạ – tức ảnh Đức Mẹ ban ơn – với trọn lòng yêu mến. Sau cùng, cụ nhắn nhủ:
– “Con phải hết sức cẩn thận. Tối nay người ta sẽ giật mìn làm sập chiếc cầu trong thành phố – và đã xảy ra đúng y như vậy – Con phải ý tứ đừng đi gần hàng rào, vì người ta gài mìn trong đó. Con cũng phải luôn luôn cầu nguyện cùng Trinh Nữ Vô Nhiễm Maria”.
Cụ già cùng đi với tôi suốt quãng đường về nhà. Khi tới trước cửa, cụ còn âu yếm nhắn nhủ thêm lần cuối:
– “Chúc con can đảm. Ta không bỏ rơi những ai mang trong mình với trọn lòng yêu kính ảnh vảy phép lạ của Đức Maria”.
Nói xong, cụ già biến mất. Tôi nhìn ra đường phố, mặc dầu đường rộng và thẳng tắp, tôi không trông thấy một bóng người qua lại.
Người khách lạ già nua đáng kính đó là ai? Đối với tôi, chắc chắn là Thánh Cả Giuse. Bộ áo, những lời khuyên bảo chỉ dạy và khuôn mặt khoan nhân đại lượng của Người, khiến tôi có thể cả quyết: “Cụ già chính là Thánh Cả Giuse”.
Câu chuyện làm liên tưởng đến lời khẳng định của kinh sĩ Joseph Schafer, linh mục người Thụy Sĩ. Cha viết:
“Có một số ơn lành Thánh Cả Giuse thường đặc biệt cầu bàu cho chúng ta trước Tòa Chúa. Thứ nhất, ơn khiết tịnh và ơn chiến thắng những cám dỗ chống lại nhân đức khiết tịnh. Thứ hai, ơn trợ giúp người tội lỗi được thoát khỏi tình trạng tội lỗi. Thứ ba, ơn can đảm thú nhận tất cả mọi yếu đuối, tội lỗi khi đi xưng tội. Thứ tư, ơn sống thân tình với Đức Mẹ và đặc biệt sùng kính Đức Mẹ. Thứ năm, ơn được soi sáng để biết nhận ra ơn gọi, sống theo ơn gọi và sống một cách trọn lành. Thứ sáu, ơn trợ giúp đặc biệt trong những lúc bị thử thách, đau bệnh và trong giờ hấp hối.. Hình như Thánh Cả Giuse yêu thích nhiệm vụ được tiếp tục che chở các trinh nữ, y như ngày xưa Thánh Cả đã che chở Nữ Trinh Rất Thánh Maria vậy”.
(René Laurentin, “FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambre Editeur 1990, trang 96-97).