Cha André Volle, thuộc Hội Thừa Sai Paris, là Cha sở nhà thờ chính tòa Thánh Gioan ở thủ đô Kuala Lumpur, nước Mã-Lai (Malaisia). Mùa hè năm 1991, trước khi rời giáo xứ đi nhận nhiệm sở khác, Cha đã ghi lại cuộc sống đạo đức của các tín hữu.
Giáo dân thường đến gặp tôi sau Thánh Lễ để xin làm phép tràng hạt. Tôi mau mắn chấp nhận. Tôi chúc tụng Chúa, rồi tôi làm phép tràng hạt và chủ của nó bằng dấu Thánh Giá. Tôi là Linh Mục đại diện Giáo Hội và tôi biết rằng Giáo Hội hiệp nhất lời cầu rộng lớn bao la của mình với lời nguyện nhỏ bé của tôi. Giáo Hội cũng ban các ân xá cho những ai đọc kinh Mân Côi .. Dĩ nhiên ân huệ này không là bao so với ơn trọng Chúa sẽ ban cho các tín hữu vào ngày sau hết. Nhưng điều ấy chỉ một mình Chúa biết. Hiện tại Giáo Hội khuyến khích mọi người đọc kinh kính Đức Mẹ và tôi là người làm trung gian. Vậy nên tôi sẵn sàng làm phép tràng hạt. Các ảnh đeo, Thánh Giá và các ảnh thánh khác mà các tín hữu mang tới xin tôi làm phép, tôi cũng làm ngay, không phiền hà gì cả, vì đây là nhiệm vụ của Linh Mục. Tôi sốt sắng đọc lời chúc lành: “Cầu xin cho các Ảnh Thánh này nhắc anh chị em nhớ đến tình Chúa yêu thương anh chị em. Ước gì Ảnh Thánh giúp anh chị em sốt sắng cầu nguyện. Đừng dùng Ảnh Thánh như vật trang điểm, khoe khoang bên ngoài, nhưng như là dấu chứng bày tỏ Đức Tin Kitô của anh chị em”.
Đôi khi các tín hữu cũng mang các sách Kinh Thánh đến xin tôi làm phép. Tôi thầm nghĩ: “Sách Thánh chứa đựng Lời Chúa, vậy tự nó đã là một sách được chúc lành rồi”. Nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn sẵn sàng làm phép, không khó chịu gì cả!
Nhà thờ chính tòa thánh Gioan nằm ngay trung tâm thành phố, nên các Thánh Lễ Chúa Nhật thường có đến 4 ngàn giáo dân đến tham dự. Và trong các giỏ tiền dâng cúng vào mỗi Thánh Lễ có đến 2 ngàn đồng Malaysia, nghĩa là mỗi giáo dân bỏ vào đó l đồng. Còn lại là những đồng tiền nhỏ hơn. Nhưng tổng cộng số tiền dâng cúng vào mỗi Thánh Lễ lên tới 4 ngàn đồng, tương đương với một ngàn ba trăm mỹ kim. Điều này chứng tỏ giáo dân ở đây rất rộng rãi, và giáo xứ thánh Gioan là một giáo xứ có nhiều may mắn vì không phải gặp khó khăn về mặt tài chánh.
Vào một Chúa Nhật, tôi thấy trong giỏ tiền dâng cúng, một phong bì, có tấm giấy ghi lời trích sách tiên tri Malakia, đoạn 3 câu 10: “Các ngươi hãy mang nộp vào kho đền thờ đủ thuế một phần mười về các hoa lợi của các ngươi. Trong đền thờ Ta cũng phải có đủ của để bảo đảm việc tế lễ. Ta là Chúa, là Đấng Toàn Năng, đòi các ngươi làm những việc ấy, bây giờ các ngươi sẽ xem Ta có thương các ngươi, mà mở cửa trời, và đổ xuống dồi dào cho các ngươi mọi thứ các ngươi cần dùng không?” Sau lời trích dẫn trên đây, là lời của người dâng cúng viết: “Lạy Chúa GIÊSU, con cám ơn Chúa đã mở lòng con và giúp con hiểu là con phải rộng rãi vì Nước Chúa. Xin Chúa ban ơn cho con biết tiếp tục dâng cúng mỗi tháng, một phần mười tiền lương của con. Lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa”. Kèm với mảnh giấy là số tiền 160 đồng 50 xu, tức là hơn 50 mỹ kim..
Khi nhận được mảnh giấy này, trong thùng tiền dâng cúng, tôi liền đọc cho cả giáo xứ nghe vào Chúa Nhật tuần sau đó. Tôi giải thích thêm: Hẳn có người trong anh chị em thầm nghĩ: “Đây là điều luật thuộc về Cựu Ước. Chúa GIÊSU trong Phúc Âm đâu có nhắc đến điều luật này”. Đúng thế. Nhưng tất cả chúng ta phải luôn luôn rộng rãi với Thiên Chúa là Đấng không ngừng ban phát cho chúng ta không biết bao nhiêu ơn lành. Chúng ta cũng có bổn phận chia sẻ với những anh chị em nghèo túng, kém may mắn hơn chúng ta nữa. Anh chị em nhận thấy rằng, nhà thờ chính tòa này cần phải sơn quét và tu bổ lại. Vậy thì nếu anh chị em vẫn có thói quen bỏ vào thùng dâng cúng mỗi Chúa Nhật là một đồng tiền, xin anh chị em thay đổi một lần, và chỉ một lần thôi, bằng số tiền 10 đồng..
Lời kêu gọi của tôi tức khắc được giáo dân nhiệt liệt hưởng ứng. Số tiền quyên góp tăng lên và chúng tôi đã có đủ tài chánh để lo việc tu bổ ngôi nhà thờ chính tòa bị hư hại nhiều nơi.
Vị Linh Mục được nhiều khích lệ khi làm việc trong một giáo xứ tương tự như giáo xứ Thánh Gioan này. Giáo dân mong đợi rất nhiều nơi các Linh Mục, nhưng bù lại, họ hết lòng nâng đỡ trợ giúp các Linh Mục. Chúng tôi thật là những Linh Mục may mắn. Tạ ơn Chúa!
(“ECHOS DE LA RUE DU BAC”, 9+10/1991, trang 237-242).