Ngày 20-9-1970, Đức Giáo Hoàng Phaolo 6 tuyên phong thánh nữ Têrêxa thành Avila làm tiến sĩ Hội Thánh. Cùng với thánh nữ Catarina thành Siena, đây là vị nữ tiến sĩ đầu tiên của Giáo Hội Công giáo.. Trong quyển “Tự Thuật”, hoàn thành năm 1562, thánh nữ Têrêxa Avila đã hết lời ngợi khen và ghi ơn công đức của hai Đấng Sinh Thành. Chính nhờ hấp thụ nền giáo dục thánh thiện của các ngài mà Têrêxa đã tiến bước trên đường nhân đức, vượt thắng những thăng trầm, những cạm bẫy. Thánh nữ viết:
Đối với tôi, để trở thành người tử tế, tôi cần có cha mẹ đạo đức và biết kính sợ Chúa. Và đó là điều Chúa đã thương ban cho tôi, mặc dầu tôi bất xứng. Thân phụ tôi rất thích đọc các tác phẩm hay, viết bằng tiếng Tây Ban Nha, và bảo chúng tôi phải đọc những sách này. Trong khi đó, mẹ tôi chuyên cần dạy chúng tôi cầu nguyện, yêu kính Mẹ Maria và một vài vị thánh. Tất cả những chăm sóc ấy đã gieo vào lòng tôi những tâm tình đạo đức, ngay từ thời thơ ấu, tức năm tôi lên 6, lên 7. Tôi được giáo dục thật chu đáo bởi cha mẹ tôi. Hai vị không yêu thích gì khác ngoài việc thực hành các nhân đức.
Nhân đức của cha mẹ tôi nhiều vô kể. Chẳng hạn thân phụ tôi rất có lòng thương người nghèo, người đau ốm và các tôi tớ giúp việc trong nhà. Lòng thương các đầy tớ lớn lao đến độ, không bao giờ Ba tôi chấp nhận sự việc có các nô lệ trong nhà. Khi người nô lệ của chú chúng tôi đến ở trong nhà chúng tôi, Ba tôi thương yêu chăm sóc như một người con trong gia đình. Ba tôi thường nói:
– “Chỉ nguyên ý nghĩ cô ta là người không được tự do, đủ làm cho Ba thương xót cô ta khôn cùng”. Một đức tính khác trổi vượt nơi thân phụ tôi là ngay chính, trung thực. Ba tôi không bao giờ chửi thề hay nói lời nào khinh bỉ.
Mẹ tôi cũng có nhiều đức tính quý báu. Nổi bật nhất là tính đoan trang trong sạch. Mẹ tôi có sắc đẹp nghiêng thành đổ nước. Nhưng người không bao giờ trang điểm, để khỏi lôi kéo sự chú ý. Và mặc dầu tuổi còn trẻ, mẹ ăn mặc kín đáo và giản dị như một người đàn bà cao tuổi, cho đến năm mẹ từ trần, hưởng dương 33 tuổi. Mẹ tôi rất hiền dịu và không bao giờ to tiếng cãi cọ hoặc tranh chấp với ai. Cuộc đời mẹ tuy ngắn ngủi, nhưng bà đã trải qua nhiều thử thách cam go. Suốt đời mẹ mang bệnh. Mẹ tôi chết trong hương thơm thánh thiện.
Tôi còn nhớ như in ngày mẹ tôi qua đời. Năm đó tôi lên 12 hoặc 14 tuổi. Khi ý thức rõ mình đã vĩnh viễn mất mẹ ở đời này, lòng tôi vô cùng đau xót. Nước mắt dàn dụa, tôi đến quỳ gối trước tượng ảnh Đức Mẹ. Tôi khẩn nài xin Đức Mẹ làm Mẹ tôi. Đây là cử chỉ hoàn toàn ngây thơ, nhưng đã giúp tôi rất nhiều, suốt cuộc đời mồ côi mẹ của tôi. Đức Maria đã trở thành người Mẹ thật của tôi, bởi vì tôi luôn chạy đến kêu cầu với Mẹ. Chính Đức Mẹ đã đưa tôi trở về với Chúa, sau những năm tháng sống bất trung.
Thời thơ ấu, sống nơi mái ấm gia đình, tôi đã theo gương Ba, ưa thích làm phúc cho người nghèo. Nhưng điều này hơi khó, vì trẻ thơ không có tiền. Có một điều tôi làm được và làm rất dễ dàng, đó là tìm nơi thanh vắng để đọc tất cả những kinh tôi thuộc, đặc biệt là lần hạt Mân Côi. Đây là lời kinh do chính mẹ tôi dạy. Mẹ tôi rất có lòng yêu mến Đức Mẹ và đã truyền sang chúng tôi lòng kính mến này. Khi chơi đùa với các trẻ gái cùng tuổi, tôi thường rủ các bạn chơi trò chơi làm các bà dòng Kín, sống nơi các đan viện. Chúng tôi giữ thinh lặng, hoặc nói năng đoan trang, hoặc cùng nhau đọc kinh lần hạt. Hình như tôi đã có lòng ao ước trở thành nữ tu nhà Kín ngay từ thơ trẻ.. Quả thật, tôi đã nhận được hồng ân lớn lao nơi Thiên Chúa. Ngài cho tôi cha mẹ đạo đức, chỉ luôn mong muốn và dạy dỗ con cái những điều lành, điều thánh. Sau này, trong cuộc đời, tôi đã có lần bất trung với Chúa. Nhưng đó là hoàn toàn do lỗi của tôi, chứ tôi không có quyền trách cứ cha mẹ tôi vì bất kỳ lý do gì.
… “Thương con thì cho roi cho vọt, sau này sẽ vui sướng vì con. Ai biết giáo dục con sẽ được thỏa lòng về con, và được hãnh diện với những người quen biết. Ai biết dạy dỗ con mình sẽ khiến kẻ thù phải phát ghen, và sẽ được sung sướng trước mặt bạn bè. Người cha có chết thì cũng như chưa chết, vì đã để lại đứa con giống như mình. Khi còn sống, ông nhìn con mà vui sướng, giờ chết đến, sẽ không phải buồn phiền” (Huấn Ca 30,1-5).
(”THÉRÈSE D’AVILA, Oeuvres Complètes, Desclée de Brouwer, 1964, trang 14-17).