Một người Do Thái kể lại câu chuyện thoát chết diệu kỳ hồi thế chiến thứ hai.
Sáng 1-9-1944, khi chuông cửa gia đình Hòa Lan cho tôi ẩn núp vang lên từng hồi, mọi người trong nhà hiểu ngay, đã đến giờ bọn đức quốc xã đến bắt tôi.. Tất cả trốn mất, trừ mình tôi. Ba người đàn ông tay cầm súng, hùng hổ xông vào nhà. Nhìn thấy tôi, họ hét lớn: “Giơ tay lên”, và tức khắc, còng tay tôi lại.. Năm đó tôi vừa đúng 25 tuổi.
Vừa đến trạm gác, bọn đức quốc xã mở ngay cuộc thẩm vấn. Họ muốn biết tên tuổi của những người đã giúp tôi có được thẻ căn cước và thẻ thực phẩm giả. Tôi cương quyết không tiết lộ danh tánh các vị ân nhân. Tôi chỉ cần nêu một tên, đủ làm cho hàng trăm người thuộc nhóm kháng chiến Hòa Lan phải thiệt mạng. Không, tôi không thể phản bội những vị ân nhân tôi. Tôi liền bị tống vào hầm tối. Ngày hôm sau tôi bị chuyển đến Rotterdam, miền Trung Hòa Lan. Tại đây tôi cũng bị tra hỏi về tên tuổi những người đã cấp thẻ căn cước giả cho tôi. Tôi nhất định không hé môi. Họ quyết định đưa tôi đến phòng tra tấn. Trên đường đi, tôi tha thiết cầu nguyện cùng Thiên Chúa, là Thiên Chúa của các tổ phụ tôi, Chúa của Abraham, Isaac, Giacob, là Đấng đã gìn giữ Daniel khỏi nanh vuốt sư tử và đã cứu sống ba thiếu niên bị ném vào vạt dầu sôi. Và quả thật Thiên Chúa đã nghe lời tôi kêu cầu.
Viên đức quốc xã chuẩn bị cuộc tra tấn hành hung tôi. Tôi cất tiếng nói:
– “Tại sao ông tốn công và mất giờ làm gì? Cứ giết tôi ngay, có phải tốt hơn không? Tôi không sợ chết, vì tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa”. Nói câu này xong, tôi lại bắt đầu nói về niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, niềm tin tôi nhận lãnh trong thời gian tôi được các vị ân nhân Công Giáo giấu ẩn. Họ trao cho tôi cuốn Kinh Thánh gồm cả Cựu lẫn Tân Ước. Nhờ đọc Kinh Thánh, đôi mắt tinh thần tôi mở rộng, tôi nhận ra Chúa Giêsu Kitô chính là Đấng Thiên Sai, Đấng mang ơn cứu độ đến cho loài người, cho trần gian.. Tôi say mê nói và viên Đức quốc xã cũng chăm chú lắng nghe, quên mất nhiệm vụ phải tra tấn. Anh tỏ ra có thiện cảm với tôi. Chúng tôi nói chuyện thân tình cho đến lúc mãn thời gian tra tấn. Viên đức quốc xã mang tôi trở lại phòng giam. Không hiểu bàn tay nhiệm mầu nào đã bịt mắt các viên đức quốc xã khác, khiến họ không nhận ra tôi không mang dấu vết hành hung nào. Họ ra lệnh tiếp tục giam tôi tại Rotterdam, trong khi chờ đợi chuyến xe chở đến trại tập trung Auschwitz bên Ba Lan.
Tôi không nghi ngờ gì về cái chết gần kề. Nhưng tôi không hề sợ hãi vì Thiên Chúa luôn ở bên tôi. Tâm hồn tôi tràn ngập an bình. Tôi dùng thời gian giam cầm để cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa. Lời Chúa tuôn đổ vào hồn tôi một cuộc sống hùng dũng và tinh khiết. Tôi thầm nghĩ:
– “Hitler có thể tước đoạt hết mọi cái nơi tôi, nhưng ông ta không thể khép kín cánh cửa Thiên Đàng, đang rộng mở chờ đón tôi. Ông ta cũng không thể ngăn cản luồng ánh sáng thần thiêng, đang chiếu dọi tận nơi sâu thẳm của hầm tối!”.
Vài tuần sau khi bị bắt, đoàn xe cuối cùng chuẩn bị chở tù nhân do thái về lò sát sinh Auschwitz. Nhưng lạ lùng thay, đêm hôm đó, một bàn tay vô hình lại một lần nữa đã xóa bỏ ngôi sao vàng dán trước cửa phòng tôi. Ngôi sao vàng là dấu hiệu của những tù nhân bị di chuyển đến trại Auschwitz. Nhờ phép lạ này, tôi là tù nhân do thái cuối cùng còn sót lại. Tôi được cứu thoát. Người ta tặng tôi biệt danh “Người do thái cuối cùng của Rotterdam”..
Tuy nhiên, hiểm nguy bị bắn chết vẫn còn đó. Đôi lúc tôi cũng bị ma quỷ quấy phá. Chúng gieo vào đầu óc tôi những tư tưởng đen tối và phản loạn chống lại Thiên Chúa. May mắn thay tôi vượt qua được .. Vài ngày trước khi chấm dứt thế chiến thứ hai, bọn đức quốc xã quyết định bắn chết tất cả bọn tù nhân chúng tôi, thay vì trao sống cho quân đồng minh. Một nhân viên cảnh sát Công Giáo người Hòa Lan đã mật báo cho chúng tôi và chúng tôi kịp thời trốn thoát.. Muôn đời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và chúc tụng Danh Thánh Ngài mãi mãi.
(Lucien Verschave, “TÉMOINS SANS FRONTIÈRES”, Editions du Lion de Juda, 1992, trang 41-44).