ƠN LÀNH ĐỨC MẸ BAN QUA ẢNH VẢY PHÉP LẠ

Trên ngôi mộ người ta đọc hàng chữ: ‘‘Ôi MARIA, xin Mẹ hãy nhớ đến đứa con Mẹ, đứa con là dấu chứng cuộc chinh phục vừa dịu hiền vừa vinh quang của tình yêu Mẹ”.

Đó là mộ Cha Alphonse Tobie Ratisbonne, Linh Mục dòng Tên. Chính Cha thành lập Đan Viện Đức Bà Sion ở Thánh Địa. Đan Viện có mục đích cầu nguyện cho anh chị em Do Thái trở về với Kitô Giáo. Câu khắc trên mộ là ước nguyện Cha bày tỏ trước khi qua đời.

Cha Alphonse Tobie Ratisbonne sinh trưởng trong gia đình Do Thái giàu có ở Strasbourg, miền Đông nước Pháp. Vào năm 1842 – lúc ấy là thanh niên 27 tuổi – chàng trai Tobie trút bỏ mọi tâm tình cùng ràng buộc tôn giáo, sống cuộc đời vô thần. Cùng năm ấy, nhân chuyến du hành qua thủ đô Roma, Tobie quen biết nam tước Bussières. Nam tước là tín hữu Công Giáo nhiệt thành. Nhận thấy chàng trai Do Thái hào hoa vừa vô thần vừa nuôi mối hận không đội trời chung với Giáo Hội Công Giáo, nam tước bỗng động lòng xót thương. Hơn nữa, nam tước muốn ngăn chặn ngay lời xúc phạm và nguyền rủa mà chàng trai Tobie không ngừng phổ biến để lăng mạ Kitô Giáo.

Trong một buổi gặp gỡ, nam tước Bussières bất ngờ hỏi thẳng:
– Anh có trí óc tinh khôn, vững mạnh và vô cùng bén nhạy. Vậy anh có bằng lòng chấp thuận một thách đố vô thưởng vô phạt không? Đó là: mang trên mình một ảnh vảy phép lạ hay cũng còn gọi là ảnh vảy Đức Mẹ ban ơn không? Vì lòng kiêu hãnh và vì muốn tháo gỡ thách đố, chàng Tobie chấp nhận mang nơi cổ ảnh vảy phép lạ. Ảnh do các nữ tử Bác ái Thánh Vinh Sơn ở đường ‘‘du Bac” của thủ đô Paris phổ biến từ năm 1830.

Thấy mình thắng ở hiệp đầu nam tước Bussières tiến thẳng sang hiệp hai. Ông khuyên chàng trai mỗi ngày đọc thêm kinh ‘‘Hãy Nhớ”:
‘‘Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh MARIA là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bàu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời. Nhân vì sự ấy, con lấy lòng trông cậy than van, chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh, xin Đức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một dủ lòng thương mà nhậm lời con cùng. Amen”.

Một vài ngày sau, trong khi chờ đợi cuộc gặp gỡ với nam tước Bussières, vì không biết phải làm gì để giết thời giờ, chàng Tobie liền ghé vào một nhà thờ Công Giáo. Sau này chính chàng kể lại:

– Tôi đứng trong nhà thờ một lúc, bỗng chốc, tôi cảm thấy mình bị rúng động mạnh. Ngước mắt lên, tôi trông thấy toàn ngôi nhà thờ biến mất. Chỉ còn lại một bàn thờ được chiếu sáng rực rỡ. Giữa luồng ánh sáng chói chang xuất hiện Trinh Nữ Rất Thánh MARIA giống y như hình được khắc trên ảnh vảy phép lạ. Đức Mẹ đứng trên bàn thờ, sáng chói và dáng điệu vô cùng uy nghiêm. Một sức mạnh vô hình thúc giục tôi tiến về phía Đức Mẹ. Đức Mẹ ra hiệu cho tôi quỳ gối xuống. Đức Mẹ không nói lời nào, nhưng tôi bỗng hiểu tất cả.

Nhà thờ – chàng trai Tobie Ratisbonne vào kính viếng và chứng kiến hiện tượng lạ – dâng kính hai Thánh Tổng Lãnh Thiên Thần Micae và Raphae ở thủ đô Roma. Trong nhà thờ có trưng bày bức họa thiếu niên Tobia và Tổng Lãnh Thiên Thần Raphae của Cựu Ước. Đúng là trùng hợp lạ lùng và đầy ý nghĩa ..

Khi nam tước Bussières bước vào nhà thờ và tìm thấy Tobie Ratisbonne thì chàng đang quỳ gối phủ phục mình xuống đất, nước mắt đầm đìa và không ngừng hôn kính ảnh vảy Đức Mẹ ban ơn.

Dĩ nhiên sau biến cố khác thường và tràn đầy hồng phúc ấy, chàng trai ngạo mạn Do Thái xin nhận lãnh bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền. Tobie chọn thêm tên thánh Alphongsô. Từ đó chàng có tên Alphonse Tobie Ratisbonne. Chàng xin gia nhập dòng Tên và chịu chức Linh Mục. Chính Cha Alphonse Tobie Ratisbonne đã thành lập Đan Viện Sion ở Thánh Địa, với mục đích cầu nguyện cho anh chị em Do Thái trở về với Kitô Giáo.

… Câu chuyện bắt đầu vào một buổi sáng, khi người láng giềng rất nóng nảy và hung dữ đến nhà đe dọa chửi mắng thân phụ tôi. Lúc đó tôi đang ở phòng kế bên nên nghe rõ mọi lời qua tiếng lại. Tức khắc, tôi tha thiết xin THIÊN CHÚA ban an bình và hòa hợp cho hai gia đình ở cạnh nhau. Tôi linh cảm thân phụ tôi cần được che chở. Tôi xin Chúa gìn giữ phù hộ người. Cùng lúc tôi linh cảm hai đứa con nhỏ người hàng xóm sắp lâm trọng bệnh. Khi ý tưởng xuất hiện tôi thân thưa với Chúa: ‘‘Không, lạy Chúa, con không có ý xin Chúa điều đó. Con chỉ xin Chúa ban hòa bình và an ninh cho hết mọi người”. Tuy nhiên, tôi linh cảm tai họa chắc chắn xảy ra nhưng sau đó sẽ mang lại điều lành.

Vì công vụ tôi phải vắng nhà hai tuần lễ. Tận thâm tâm tôi không cảm thấy lo âu vì biết rõ THIÊN CHÚA sẽ chăm sóc cha mẹ già tôi cách riêng.. Tuy nhiên, dầu đặt trọn niềm tin tưởng nơi sự phù trợ của THIÊN CHÚA, tôi vẫn bị cám dỗ trở về nhà vào Chúa Nhật kế tiếp. Lạ lùng thay tôi không tài nào thu xếp công việc để về gia đình thăm viếng cha mẹ. Tôi đành ở yên tại chỗ và chỉ trở về như chương trình đã định.

Thân phụ tôi đón tôi ở ga xe lửa vào lúc nửa đêm. Trên đường về nhà, như thường lệ, cha tôi kể tôi nghe những chuyện xảy ra trong thời gian tôi vắng mặt. Người cho biết: Ngay hôm sau ngày tôi ra đi, hai bé gái – Clementia 9 tuổi và Amelia 7 tuổi – con của người hàng xóm, bỗng ngã bệnh nặng. Thật bất ngờ và không ai giải thích được tại sao. Mọi người cuống quýt lo lắng. Cả thảy 8 lần, người ta cho mời nhiều bác sĩ khác nhau, đến chẩn bệnh và chữa trị cho hai đứa trẻ, nhưng vô hiệu. Hai bé gái vẫn tiếp tục bị đau bụng dữ dội.

Sáng sớm hôm sau khi thức dậy tôi nghe như có tiếng nói bên tai: ‘‘Lấy hai ảnh vảy phép lạ trao cho Clementia và Amelia”. Hồi ấy, tôi không có thói quen giao thiệp với những người láng giềng. Tôi phân vân không biết xử sự ra sao. Tôi muốn giữ thái độ kín đáo với gia đình cũng như với mọi người chung quanh. May mắn thay, vào lúc tôi ra khỏi nhà thì bà ngoại của hai bé gái cũng ra khỏi nhà. Vừa trông thấy bà, tôi đến gần cất tiếng nói:

– Chào bác. Nghe tin hai cháu đang đau. Vậy xin bác đem hai ảnh vảy Đức Mẹ làm phép lạ vào đeo cho hai cháu. Chắc chắn hai cháu sẽ được khỏi bệnh.

Bà cụ thật ngỡ ngàng trước cử chỉ của tôi. Thứ nhất, vì tôi là con trai của người hàng xóm, tôi mở lời chào và nói chuyện với bà. Thứ hai, tôi lại tự ý đến giúp đỡ bà trong cơn nguy khốn và đề nghị một phương thế bất ngờ. Quá ngạc nhiên bà cụ chỉ biết đơn sơ chấp nhận và hứa sẽ cho hai cháu đeo ngay hai ảnh vảy Đức Mẹ ban ơn.

Và đúng như lời Đức Mẹ hứa. Ngay chiều hôm ấy, hai bé Clementia và Amelia khỏi bệnh và chạy chơi như không có chuyện gì xảy ra cả.

Sau biến cố lạ lùng đó, bà cụ láng giềng trở về cùng Chúa. Từ đấy bà tham dự Thánh Lễ thường xuyên và không bao giờ bỏ lễ Chúa Nhật. Hơn thế nữa, một nhóm tín hữu Công Giáo trong làng đều đặn quy tụ nơi nhà bà để lần hạt Mân Côi chung, kính Đức Mẹ. Hai bé Clementia và Amelia theo gương Bà Ngoại, ngày nào cũng lần hạt, đọc kinh và cầu nguyện với Đức Mẹ.

(”Le Ciel Parmi Nous”, Editions Bénédictines, 1997).

Chia sẻ Bài này:

Related posts