Lên trời (theo nghĩa bình thường) là niềm mơ ước của nhiều người, nhưng chỉ ít người đạt được, số ít đó là các phi hành gia. Họ đã lên đó và “gặp” Hằng Nga, điều mà xưa kia là điều không tưởng. Theo nghĩa bình thường như vậy, và mang tính khôi hài một chút, phải nói rằng Chú Cuội là người lên Cung Trăng đầu tiên.
Lên trời như vậy chỉ là “tham quan” mặt trăng, hoặc “khám phá” một hành tinh nào đó, hoặc tìm hiểu các “lỗ đen” trong vũ trụ. Với các Kitô hữu, “lên trời” như vậy chỉ là… “chuyện nhỏ”, “về trời” mới đáng nói, vì đó là Quê Hương Đích Thực, về trời để vĩnh cư chứ không ở chơi ít lâu rồi thôi. Đặc biệt là nơi có Đức Kitô và Đức Maria đang chờ chúng ta. Vâng, về trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Nhưng muốn theo Đức Mẹ về trời thì phải noi gương sống của Đức Mẹ, nghe lời dạy của Đức Mẹ là “tuân phục Ý Chúa” – tức là “xin vâng” (Lc 1:38), và nhiệt thành làm “chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Đức Mẹ đã về trời cả hồn và xác (Đức Mẹ mông triệu). Đó là một minh chứng hùng hồn và cụ thể. Tín điều này được ĐGH Piô XII công bố ngày 1-11-1950, qua Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại).
Nói tới chuyện “lên trời” có liên quan chuyện “hồn ra khỏi xác”, tức là chết. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Chết là “cửa ngõ” vào sự sống vĩnh hằng. Ai muốn làm công dân Thiên Quốc, chắc chắn người đó phải sống Luật Chúa một cách ngoan cường và anh dũng.
TỪ THỊ KIẾN…
Thánh Gioan kể lại thị kiến về Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, với điềm lớn xuất hiện: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Thật là vinh quang, nhưng không thiếu gian khó là sự công bằng tất yếu: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12:2). Quả thật, không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô đã phải qua “cửa tử” rồi mới tới “cửa sống” và chiến thắng khải hoàn. Đau khổ có giá trị cao lắm!
Thánh Gioan cho biết thêm: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12:3-4). Đây là người-con-đặc-biệt, chính “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân”, rồi sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12:5), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc, nơi Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12:6).
Khi thấy thị kiến này, Thánh Gioan nghe có tiếng hô vang trên trời cao: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Lúc đó là thời điểm gì? Đó là Giờ Cứu Độ, là thời điểm cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm để xét xử nhân loại, là Giờ Công Lý, không còn Giờ Thương Xót nữa.
Thánh Vịnh diễn tả về Đức Mẹ là “Hoàng Hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45):10]. Cả triều thần hát vang lời chúc tụng: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45):11]. Một khi được trực diện Thánh Nhan, gặp chính Thiên Chúa, người ta không còn cần bất kỳ thứ gì khác, vì niềm hạnh phúc quá lớn lao. Và chính Hoàng Hậu cũng vậy, vì “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45):12]. Người-được-gặp-Chúa không thể trì hoãn bày tỏ niềm hạnh phúc tuyệt vời, dù chỉ trong khoảnh khắc: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45):16]. Trên Núi Tabor, ba Tông đồ (Phêrô, Giacôbê và Gioan) cũng đã từng được tận hưởng niềm hạnh phúc lâng lâng khôn tả, và các ông chẳng còn cần gì nữa (Mt 17:1-9; Mc 9:2-8; Lc 9:28-36).
…TỚI HIỆN THỰC
Đức Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai, đã bị giết chết nhưng cũng đã thực sự sống lại. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15:20). Tại sao vậy chứ? Thánh Phaolô giải thích: “Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:21-24). Rất rạch ròi, rõ ràng!
Quả thật là thế, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15:25), đó là “kẻ độc ác nhất”, và Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Bởi vì, theo Thánh Phaolô, “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28). Lý luận cao kiến của Nhà Tư Tưởng vĩ đại Phaolô rất mạch lạc, tuyệt vời, và dễ hiểu!
Thánh sử Luca kể ngắn gọn nhưng đầy đủ: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Em Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42). Không thể chờ đợi lâu hơn, Chị Êlisabét liền reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:43-45).
Đức Mẹ trở thành người diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Vấn đề là chỗ đó, nhưng đức tin phải vững vàng chứ không thể tin cho có, tin cho vui, tin cho… giống người ta, tin để khỏi “lạc bầy”. Điều này nhắc chúng ta phải tự chấn chỉnh và chăm sóc đức tin của chính mình!
Niềm vui có sức lan tỏa, có khả năng nối kết. Vừa nghe Bà Chị Êlisabét “khen nức” như vậy, Đức Maria không thể kiềm chế niềm vui thánh đức, liền cất tiến ca ngợi Thiên Chúa bằng Bài Thánh Ca Magnificat (Lc 1:46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời vàng ngọc của Đức Mẹ chứa đầy sự khiêm nhường, niềm tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày trong giờ kinh Nhật Tụng.
Sau đó, “Đức Maria ở lại với Chị Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56). Đức Mẹ đi thăm người chị họ theo phép xã giao, thể hiện yêu thương, nhưng vấn đề chính là để “báo tin mừng”, muốn phục vụ bà chị đang thai nghén bé Gioan Tẩy Giả. Đức Mẹ không đi tu ngày nào, chẳng hề tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Một tấm gương chói ngời mà ai ai cũng phải “soi” vào – nhất là các giáo sĩ và tu sĩ.
Đức Maria tự nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”, nhưng Thiên Chúa đã biến Đức Mẹ thành một Phụ nữ cao trọng bậc nhất trong các loài thụ tạo. Khiêm nhường là nền món vững chắc của Tòa Nhà Đức Tin.
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một Thánh Mẫu hơn cả sự tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết phục vụ trong sự khiêm nhường và tình yêu thương. Lạy Hiền Mẫu của chúng con, xin dẫn chúng con theo Mẹ về trời bằng cách biết “xin vâng” như Mẹ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU