Ông Phêrô Sửu, thuộc giáo xứ Thanh Hóa, Bảo Lộc, giáo phận Đà-lạt, đã kể lại việc mình được ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ như sau:
“Năm ấy tôi lên 14 tuổi, cha mẹ cho tôi đi học. Một hôm bỗng thấy hai đầu gối tê tê, buồn buồn, có phần đau nhức… đang đi có lúc phải ngồi bệt xuống, một lúc lâu mới đứng dậy được. Về mách với mẹ, mẹ lại mắng:
– “Cứ vật nhau mãi với trẻ con, đau gì mà đau!”
Chừng một năm tôi không còn đi được nữa, bấy giờ cha mẹ mới lo tìm thầy chạy thuốc, nhưng quá rồi, vô ích, tiền mất tật mang, nhà nghèo hết tiền uống thuốc. Cha tôi bảo:
– “Thôi, nó chịu tật vì bệnh gia truyền rồi, ông nội nó cũng vậy, chịu què đến chết, không tài nào chữa được.”
Tôi nay què thật. Sau đó hết đau nhưng đã thành tật: Chỉ ngồi, muốn xê dịch phải nhảy chồm như con cóc, hai bàn tay thành chín dạn, ai thấy cũng cười, trẻ con chế nhạo! Nhưng Chúa thương, cho tôi làm việc như người lành lặn. Tôi chuyên môn làm nghề đơm tôm cá. Người ta lội xuống nước đến đầu gối; tôi lội xuống thì nước đến cổ, đến cằm, thế mà tôi vẫn kiếm được nhiều cá, tôm hơn người và mẹ tôi đi bán cũng đắt hàng hơn người khác, khiến có người ghen: có tật có tài. Phần tôi, tôi tin chắc Đức Mẹ thương vì gia đình tôi nghèo, cha tôi yếu bệnh, đến khi tôi được 30 tuổi thì cha tôi không làm gì được nữa, chỉ còn mẹ, tôi và một em gái. Cha tôi bây giờ chỉ lo đi giúp đỡ kẻ liệt, đọc sách, mời cha xức dầu hoặc đưa của ăn đàng .v.v…
Một hôm cha tôi giúp một kẻ liệt nhà giàu, ông có nhiều ảnh thánh, hôm ấy ông mua được bức ảnh Đức Mẹ mới tinh, về treo trên bàn thờ, còn bức ảnh cũ ông bảo treo nhà dưới. Đó là ảnh Đức Mẹ hồn xác lên trời, cha tôi xin, ông liền cho ngay; cha tôi mang về bảo tôi sửa bàn thờ và treo lên rồi bắt tôi mỗi ngày ba buổi: sáng, trưa, tối đến trước ảnh đó ngắm và đọc 50 kinh mân côi, cầu xin với Đức Mẹ cho đứng lên được mà đi nhà thờ cho người ta khỏi chia trí. Tôi mừng lắm, tuân theo lời cha dạy, mỗi lần đến trước ảnh Đức Mẹ, tôi lần chuỗi sốt sắng và tha thiết cầu xin với Mẹ, cho tôi đi đứng như thường, kẻo mỗi lần lên rước lễ mà nhảy như cóc thì cả nhà thờ chia trí lắm.
Thi hành như lời cha dạy được bốn tháng, một hôm, tự nhiên tôi muốn đi xưng tội mà nhà tôi ở xa nhà xứ độ ba cây số, đường đất bị mưa lầy lội, nếu tôi cứ chồm nhảy sẽ lấm bẩn hết quần áo. Vì thế mẹ tôi phải cõng đi. Nhưng vì già yếu, cõng được một quãng thì mệt, liền đặt tôi xuống, tôi cởi áo quần dài, mặc quần cụt nhảy mà đi để mẹ tôi khỏi phải cõng. Đến nhà xứ, vào nhà quen trọ, thôi thì người lớn trẻ con bu nhau lại xem tôi và cười nhạo. Tôi xấu hổ quá, nhưng cắn răng chịu đựng. Tối đến tôi nhảy đi xưng tội. Sáng mai, tôi nhảy đi lễ, ngồi tựa cột dưới cuối nhà thờ. Lúc lên rước lễ, tôi nhảy lên làm cho mọi người chia trí. Sáng ngày thứ hai, tôi nhảy ra nhà thờ thật sớm, lên ngồi với trẻ con cho gần cung thánh để dễ nhảy lên rước lễ. Nhưng lúc đọc Phúc Âm, mọi người đứng lên cả, tôi cứ ngồi, liền bị ông quản vụt cho một roi và mắng:
– “Thằng lười, Phúc Âm mà không đứng! Đi lễ làm gì!”. Tôi đành nín thinh chịu trận.
Sáng sau hết, tôi đi lễ không dám ngồi với trẻ con nữa, tìm cột cuối mà dựa. Lễ xong, mọi người ra về cả, một mình tôi ở lại, tôi nài xin với Mẹ cho tôi được đứng lên dễ dàng, để đi lễ, rước Chúa .v.v… Tôi nài xin rất tha thiết, sốt sắng, thỉnh thoảng ngó xuống chân mà khóc… thầm thĩ giờ lâu, bỗng có tiếng lương tâm xúi giục “bám vào cột mà đứng”. Tôi liền bám hai tay vào cột, rướn mình lên, thấy nhẹ nhàng và đứng thẳng lên được. Tôi cứ đứng yên như người mê hoảng, chẳng biết gì, một lúc định thần lại, tưởng mình mơ, mà quả thật mình đã đứng được. Tôi bỏ hai tay ra, cám ơn Chúa và Đức Mẹ, ra cửa nhà thờ, nhưng sợ người ta thấy mà bỡ ngỡ, liền bỏ hai tay xuống mà nhảy như trước để về nhà trọ. Đến nhà, tôi đứng lên, kêu người nhà ra xem…cả nhà bỡ ngỡ vui mừng. Tôi từ giã nhà trọ trở về nhà mình. Cả nhà vui mừng quá, quì xuống tạ ơn Chúa và Đức Mẹ. Tin này vang ra nhanh chóng, nên làng nước tuốn đến hỏi thăm và xem sự lạ chật ních nhà. Bấy giờ tôi đã được 40 tuổi, bị què 26 năm. Từ lúc tôi đứng lên được, đi được, thì chân tôi nở nang lớn dần đều đặn như chân thường chứ không gầy còm khô đét như lúc có tật.
Đức Mẹ đã thương cho tôi khỏi què, tôi định sẽ “đi ở” giúp việc cho các cha, đêm ngày làm tôi Chúa, sau khi lo liệu gia đình cho em gái, nhưng thánh ý Chúa lại khác. Sau một năm lành bệnh, cha tôi tỏ cho tôi biết: năm trước đi giúp kẻ liệt, có một ông nhà giàu ốm nặng, trối lại: hễ ông chết, giao phó đứa con gái duy nhất của ông cho cha tôi, để cho con ông và con cha tôi thành gia thất, vì cô ta là con út mà mẹ đã mất. Cha tôi hỏi ý tôi, tôi xưng thú với cha, mình đã 42 tuổi, xấu xí, ai chịu ưng. Nhưng việc phải đến đã đến, cha Giuse Maria Uy, chánh xứ Phúc Lang, Thanh Hóa đã làm phép cưới cho chúng tôi. Chúa đã ban cho chúng tôi được tám đứa con, bốn trai bốn gái. Chúa cất về trời hai trai, hai gái lúc sơ sinh. Năm nay tôi đã 64 tuổi, tôi và bạn tôi định đăng lên báo chi ơn đặc biệt Đức Mẹ đã ban, để cám ơn và cao rao lòng nhân thành hay thương xót của Đức Mẹ, để tôi được thỏa mãn lòng đền ơn Đức Mẹ trước khi nhắm mắt.
(Fr. J. Nguyễn Tri Ân OP, Tháng Mười, Tháng Mân Côi Đức Bà. Chân Lý xuất bản 1964, trang 224-230)
MB sưu tầm