CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ
Thứ Tư, ngày 07/05/2014
PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI
1. KHAI MẠC
(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)
1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần
Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.
ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.
2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
2. TIN MỪNG
(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)
Tin Mừng: Ga 6,35-40
35 Đức Giê-su bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!36 Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin.37 Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài,38 vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.39 Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
3. SUY NIỆM
“Hễ ai thấy Con thì có sự sống đời đời” (Ga 6,39).
Như Mẹ: Thiên Chúa luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Ngài là Đấng vô hình, làm sao chúng ta thấy được Ngài đây? Ý muốn của Cha là “hễ ai thấy Con thì có sự sống đời đời”, đây quả là một thách đố không nhỏ cho niềm tin khi mà chúng ta chỉ tin những gì chúng ta thấy và kiểm chứng được.
Với Mẹ: Lạy Chúa, vật chất là điều cần cho cuộc sống nhưng không đem lại sự sống đời đời. Hưởng thụ, thành đạt, địa vị không làm con no thỏa khao khát, vì nó không phải là vĩnh cửu. Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho con no thoả. Xin giúp con tìm được sức mạnh để tin và sống theo Lời Chúa dạy.
Nhờ Mẹ: Xin Mẹ giúp con biết theo gương Mẹ mà suy đi gẫm lại Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
4. LẦN HẠT MÂN CÔI
(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)
5. KẾT THÚC
(hát hoặc đọc)
1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa
ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.
1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.
2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.
3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.
2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.
Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA
BÀI 13: LỜI TIÊN BÁO VỀ BÀ MẸ ĐẤNG MÊSIA
Tiếp tục khảo sát những đoạn Cựu ước tiên báo về Đức Maria, lần này Đức Thánh Cha tìm hiểu đoạn văn của Isaia 7,1 (được trích dẫn ở Mt 1,23), và Mikha 5,1 (được trích dẫn ở Mt 2,6). Đó là những lời tiên báo về bà mẹ của Đấng Mêsia, và mẹ đồng trinh.
1.- Khi bàn về hình bóng của Đức Maria trong Cựu ước, công đồng Vaticano II nhắc tới bản văn nổi tiếng của Isaia (HT 55), bản văn này đã thu hút sự chú ý đặc biệt của các Kitô hữu tiên khởi: “Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một người con được đặt tên là Emmanuel”(Is 7,14).
Trong cảnh Thiên sứ truyền tin mời ông Giuse hãy đón nhận Maria làm bạn của mình, “bởi vì Người được sinh ra là do Thánh thần”, thánh Matthêu đã gán cho bản văn nói trên một ý nghĩa hướng về Đức Kitô và về Đức Maria. Thực vậy, thánh sử chú thích rằng: “tất cả điều này xảy ra hầu ứng nghiệm điều đã được Chúa nói qua miệng ngôn sứ rằng: này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một người con được đặt tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 22-23).
2.- Trong bản văn tiếng Hipri, lời tiên báo không có nói tới việc sinh hạ trinh khiết của Đấng Emmanuel: danh từ trong tiếng Do thái (almah) chỉ có nghĩa là “một thiếu nữ”, chứ không hẳn là một trinh nữ. Ngoài ra, chúng ta biết rằng truyền thống Dothái không có đề cao lý tưởng trinh khiết trọn đời, cũng không hề trình bày tư tưởng một người mẹ đồng trinh.
Tuy nhiên, trong bản dịch Hy lạp, danh từ Hipri đã được dịch ra là “parthenos”, “trinh nữ”. Sự kiện này bề ngoài xem ra chỉ là một chi tiết của việc chuyển dịch, nhưng cần phải nhìn nhận rằng đây là một sự định hướng nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần cho đoạn văn ông Isaia, nhằm chuẩn bị cho chúng ta hiểu sự sinh hạ lạ thường của Đấng Messia. Việc chuyển dịch sang từ ngữ “trinh nữ” có thể được giải thích bằng sự kiện là bản văn của Isaia đã chuẩn bị một cách trang trọng cho việc loan báo việc thụ thai như là một dấu chỉ đặc biệt của Thiên Chúa (Is 7, 10-11), và gợi lên niềm trông đợi một việc thụ thai lạ kỳ. Thế nhưng chuyện một thiếu nữ thụ thai một đứa con sau khi đã giao hợp với chồng mình thì đâu phải là một sự kiện khác thường. Mặt khác, sấm ngôn không hề đả động tí nào tới một người chồng. Sự kiện này đã gợi lên nơi người dịch ra tiếng Hy-lạp sự giải thích theo chiều hướng đã nói.
3.- Trong văn mạch nguyên thủy, sấm ngôn Is 7,14 là lời đáp lại của Thiên Chúa đối với sự thiếu niềm tin của vua Acap. Trước mối đe dọa của quân đội đối phương xâm lăng, vua Acap đi tìm sự cứu thoát cho mình bằng cách đi tìm sự che chở nơi nhà vua Assyria. Khi khuyên nhủ nhà vua hãy đặt tín thác vào một mình Thiên Chúa, khước từ sự can thiệp đáng e ngại của nước Assyria, ngôn sứ Isaia đứng về phía Thiên Chúa để kêu gọi vua hãy tin tưởng vào quyền năng của Người: “Nhà vua hãy xin Chúa một điềm lạ”. Trước sự từ chối của nhà vua, bởi vì ông muốn đi tìm sự cứu thoát bằng các phương tiện thế trần, ngôn sứ đã tuyên bố sấm ngôn nổi tiếng như sau: “Hỡi nhà Đavít hãy nghe đây! ngươi đã quấy rầy sự kiên nhẫn của loài người chưa đủ hay sao, bây giờ ngươi lại còn muốn quấy rầy sự kiên nhẫn của Chúa ta nữa? Vì thế Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi một dấu chỉ. Này đây người trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một người con được đặt tên là Emmanuel”(Is 7, 13-14).
Việc loan báo dấu chỉ Emmanuel, “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”, hàm ngụ rằng lời hứa Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử sẽ được hiện thực đầy đủ trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể.
4.- Khi loan báo sự sinh hạ diệu kỳ của Đấng Emmanuel, việc nhắc tới một người nữ thụ thai và sinh con đã có ý liên kết số phận người mẹ với số phận người con, – một hoàng tử mang sứ mạng thiết lập vương quốc lý tưởng, vương quốc của Đấng Mêsia- và cho thấy kế hoạch của Thiên Chúa muốn làm nổi bật vai trò của người nữ.
Thực vậy, dấu hiệu không chỉ áp dụng cho hài nhi mà thôi, nhưng sự thụ thai kỳ diệu được bày tỏ qua việc sinh hạ, là một biến cố đầy hy vọng làm nổi bật vai trò chính yếu của người mẹ.
Ngoài ra, sấm ngôn của Đấng Emmanuel cần được hiểu qua viễn tượng đã được mở ra bởi lời hứa dành cho nhà Đavit gặp thấy trong quyển II sách Samuel. Ngôn sứ Nathan đã hứa với nhà vua về hồng ân Thiên Chúa dành cho hậu duệ của ông: “Người sẽ xây một nhà cho Danh Ta và Ta sẽ cho ngôi báu nước người tồn tại mãi mãi. Ta sẽ là cha của người và người sẽ là con của Ta”(2Sm 7, 13-14).
Đối với dòng dõi Đavit, Thiên Chúa muốn đảm nhận vai trò của người cha; điều này được thực hiện cách trọn vẹn trong Tân ước với việc Con Thiên Chúa nhập thể trong nhà Đavit (xc. Rm 1, 3).
5.- Ngôn sứ Isaia, trong một đoạn văn nổi tiếng, đã nhấn mạnh tính cách khác thường của việc sinh hạ Đấng Emmanuel. Những lời đó như sau: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một trẻ thơ được ban cho chúng ta. Dấu hiệu của quyền bá chủ được đặt lên vai của Người; tên của Người: Cố vấn diệu kỳ. Thiên Chúa hùng mạnh, Cha vạn đại, Thái tử hòa bình”(9, 5). Qua chuỗi những danh hiệu của hài nhi, ngôn sứ muốn diễn tả những đặc trưng của vương quyền của ông: cao minh, quyền thế, nhân hậu như người cha, công tác trị an.
Đoạn văn này không nói tới bà mẹ, nhưng việc tuyên dương người con mang lại cho nhân dân tất cả những gì mà họ trông mong ở triều đại của Đấng Mêsia, cũng được tràn sang bà mẹ đã cưu mang và sinh hạ Đấng Mêsia.
6.- Một sấm ngôn thời danh của ngôn sứ Mikêa cũng nói tới việc sinh hạ Đấng Emmanuel. Ngôn sứ nói như sau: “Còn ngươi, hỡi Betlem Ephrata, ngươi quá nhỏ nên không đáng được kể vào số thủ phủ Giuđa; nhưng từ ngươi sẽ nảy ra Vị Thống lĩnh Israel; nguồn gốc của Người đã bắt đầu từ thuở xa xưa. Vì thế Thiên Chúa sẽ đặt quyền năng của người khác nơi ngươi cho đến khi Kẻ sinh sẽ sinh”(5, 1-2). Những lời này ta thấy vang lên sự trông mong một cuộc sinh hạ tràn đầy hy vọng của thời Mêsia, trong đó một lần nữa ta thấy nổi bật vai trò của bà mẹ, được nhắc tới qua biến cố trọng đại mang lại vui mừng và cứu thoát.
7.- Chức làm mẹ đồng trinh của Đức Maria đã được chuẩn bị một cách phổ quát hơn nữa qua hồng ân mà Chúa ban cho những người khiêm tốn khó nghèo (xc. HT 55).
Những người này chỉ biết đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa, và qua thái độ của ho, họ đã nêu bật trước ý nghĩa sâu xa của sự trinh khiết của Đức Maria. Người đã khước từ sự phú quý của chức làm mẹ theo lối thường tình, và chờ mong sự phong nhiêu từ nơi Thiên Chúa.
Do đó, Cựu ước không chứa đựng một lời loan báo rõ rệt về một người mẹ đồng trinh như sẽ được mặc khải trong Tân ước. Tuy vậy, sấm ngôn của Isaia(7,14) đã chuẩn bị cho sự mặc khải mầu nhiệm này và đã được xác định qua bản dịch Hylạp ở Cựu Ước. Khi trích dẫn lời sấm ngôn theo bản dịch Hylạp, Phúc âm của Matthêu đã công bố sự hoàn tất trọn vẹn của nó qua việc thụ thai Đức Giêsu trong cung lòng trinh khiết của Đức Maria.
BÀI 14: CHỨC LÀM MẸ LÀ DO ƠN CHÚA
Bên cạnh những đoạn văn Cựu ước đã được Tân ước áp dụng cho Đức Maria, Đức Thánh Cha suy nghĩ đến những trường hợp Thiên Chúa can thiệp vào việc cho những bà mẹ son sẻ được có con, đặc biệt là vào những giai đoạn quan trọng trong lịch sử dân tộc Israel ( ông Isaac, ông Giuse, ông Samson, ông Samuel). Những trường hợp này chuẩn bị sự can thiệp của Thiên Chúa cho Trinh nữ Maria làm mẹ Đấng Cứu thế.
1.- Chức làm mẹ là một hồng ân của Thiên Chúa.
“Tôi đã được Chúa ban cho một con người”(St 4,1), đó là lời bà Evà thốt lên sau khi đã thụ thai Cain người con đầu lòng. Qua những lời này, sách Sáng thế trình bày cho thấy chức làm mẹ tiên khởi trong lịch sử nhân loại như là một hồng ân và là một niền vui bắt nguồn từ lòng lân tuất của Đấng Tạo hóa.
2.- Vào lúc khởi nguyên của Dân được tuyển chọn, Sách thánh cũng mô tả cách tương tự như vậy về sự sinh hạ ông Isaac.
Ông Abraham không có con cái và đã cao niên. Thiên Chúa hứa cho ông một dòng tộc đông đúc như sao trên trời (xc. St 15, 5). Lời hứa đó đã được vị tổ phụ đón nhận trong đức tin, mở cho con người thấy chương trình Thiên Chúa: “ông đã tin vào Thiên Chúa, và ông đã được coi là người công chính” (xc. St 15, 6).
Lời hứa trên đây được xác nhận bằng những lời Chúa phán nhân dịp ký kết giao ước với ông Abraham: “Này đây: giao ước của Ta sẽ ở với ngươi và ngươi sẽ trở thành cha của một đoàn dân đông đúc”(St 17,4).
Những biến cố phi thường và nhiệm mầu đã nêu bật rằng chức làm mẹ của bà Sara là kết qủa của lòng lân tuất của Thiên Chúa, Đấng đã ban sự sống vượt quá tầm tính toán của con người: “Ta sẽ chúc phúc cho bà và Ta sẽ ban cho ngươi một người con do bà; Ta sẽ chúc phúc cho nó và nó sẽ trở thành những dân tộc; vua chúa các dân nước sẽ sinh ra bởi bà”(St 17, 15-16).
Chức làm mẹ được trình bày như là một hồng ân của Thiên Chúa: tổ phụ Abraham và bà vợ sẽ nhận một tên mới nhằm nói lên sự thay đổi lạ thường mà Thiên Chúa tác động trong cuộc đời của họ.
3.- Việc ba nhân vật huyền bí, mà các Giáo phụ coi như là tiên báo Chúa Ba Ngôi đã loan báo cách cụ thể hơn cho ông Abraham sự hoàn tất lời hứa: “Chúa hiện tới ông Abraham tại Mambrê, khi ông ta ngồi ở cửa lều vào giờ nóng nhất trong ngày. Ông ta ngước mắt nhìn và ông thấy ba người đứng trước mặt ông” (St 18, 1-2).
Ông Abraham liền hỏi: “Một người đã trăm tuổi còn có thể sinh con được không? Bà Sara 90 tuổi còn có thể sinh con được không?” (St 17, 17; 18, 11-13). Vị thượng khách trả lời: “Có điều gì mà Thiên Chúa không thể làm được? Vào thời đã định Ta sẽ trở lại với ngươi và bà Sara sẽ có con” (St 18,14; xc. Lc 1,37).
Trình thuật này cho thấy hiệu quả việc Thiên Chúa đến thăm viếng là ban cho một đôi vợ chồng son sẻ trở thành phong nhiêu. Tin vào lời hứa, ông Abraham trở thành người cha bất chấp mọi hy vọng, và “người cha trong đức tin” bởi vì do đức tin của ông “truyền thụ” đức tin của dân tuyển chọn.
4.- Kinh thánh còn thuật lại nhiều trình thuật về những người phụ nữ đã được cứu thoát khỏi cảnh son sẻ và được Chúa ban cho niềm vui làm mẹ. Đó là những hoàn cảnh bứt rứt mà sự can thiệp của Chúa biến đổi thành những dịp hân hoan khi Người chấp nhận lời cầu nguyện thống thiết của những kẻ đã hết hy vọng nếu xét theo sự tính toán loài người. Chẳng hạn như bà Rakhel, “thấy rằng mình không thể nào sinh con cho ông Giacóp được, bà trở thành ghen tương với bà chị Lia và nói với ông Giacóp rằng: hãy cho tôi con cái, nếu không thì tôi chết mất! Ông Giacóp tức giận và nói: phải chăng ta có quyền như Chúa, Đấng đã khước từ hoa trái của lòng bà hay sao?” (St 30, 1-2).
Tuy nhiên liền đó bản văn Kinh thánh thêm rằng “Thiên Chúa nhớ lại bà Rakhel; Thiên Chúa nhận lời bà và ban cho bà có con. Bà đã thụ thai và sinh ra một người con” (St 30, 22-23). Người con đó, ông Giuse, đã thi hành một chức vụ rất quan trọng đối với Dân Israel vào lúc di cư sang nước Ai cập.
Trong trình thuật vừa rồi cũng như trong trình thuật khác, khi nêu bật điều kiện son sẻ của người phụ nữ, Kinh thánh muốn nêu bật sự can thiệp kỳ diêu của Thiên Chúa trong những hoàn cảnh đặc biệt, nhưng đồng thời cũng cho thấy chiều kích ơn huệ trong hết mọi trường hợp làm mẹ.
5.- Điều tương tự cũng xảy ra trong trình thuật về việc sinh ông Samson. Bà vợ của ông Manoac chưa bao giờ có thể sinh con, thì đã nhận được lời loan báo của thiên sứ như thế này: “Kìa, bà son sẻ và không con, nhưng bà sẽ thụ thai và sinh một người con” (Tl 13, 3). Việc thụ thai bất ngờ và lạ lùng đã loan báo những kỳ công mà Chúa sẽ thực hiện qua ông Samson.
Trong trường hợp bà Anna mẹ của ông Samuel, vai trò đặc biệt của sự cầu nguyện đã được nhấn mạnh. Bà Anna sống trong sự tủi nhục vì son sẻ, nhưng bà luôn luôn đặt niềm tin vào Thiên Chúa; bà liên lỉ cầu khẩn xin Chúa giúp bà vượt qua cơn thử thách. Một ngày kia, khi lên Đền thờ bà đã khấn hứa: “Lạy Chúa các cơ binh, nếu Chúa không quên người nữ tì này và nếu Chúa ban cho nữ tì một người con trai, thì con sẽ dâng cho Chúa hết mọi ngày đời nó” (1Sm 1,11).
Lời cầu của bà đã được chấp nhận: “Thiên Chúa nhớ tới bà và bà thụ thai sinh một người con trai đặt tên là Samuel”(1Sm 1, 19-20).
Thực hiện lời khấn, bà Anna đã dâng con cho Thiên Chúa: “vì đứa con này mà con đã khẩn cầu và Thiên Chúa đã ban cho con hồng ân mà con xin. Vì thế con cũng xin dâng lại cho Chúa: nó sẽ được nhượng lại cho Chúa trong hết mọi ngày đời nó” (1Sm 1, 27-28). Bé Samuel được Chúa ban cho bà Anna và rồi bà Anna đã dâng lại cho Chúa, và người thiếu niên đó đã trở thành mối dây liên kết khắng khít giữa bà Anna với Thiên Chúa.
Do đó, việc sinh hạ bé Samuel trở thành kinh nghiệm của niềm hân hoan và cơ hội để tạ ơn. Sách 1 Samuel còn thuật lại một thánh thi, được gọi là “Magnificat” của bà Anna, và xem ra đã đi trước kinh Magnificat của Đức Maria: “tâm hồn tôi hớn hở trong Thiên Chúa, nhờ ơn Chúa mà trán tôi ngẩng lên ” (1Sm 2, 1).
Hồng ân làm mẹ được Thiên Chúa ban cho bà Anna, do lời cầu nguyện liên lỉ của bà, đã gợi lên nơi bà một lòng quảng đại mới. Việc dâng hiến Samuel chính là sự đền đáp biết ơn của một người mẹ, khi thấy rằng người con của mình là hoa trái của lòng Chúa lân tuất của Chúa; bà đã đáp lại hồng ân bằng cách ký thác người con thân yêu của mình cho Chúa.
6.- Khi thuật lại những cảnh làm mẹ khác thường được nhắc trên đây, chúng ta thấy rằng Kinh thánh đã trao cho các bà mẹ một chỗ đứng quan trọng nơi sứ mạng của con mình. Trong trường hợp Samuel, bà Anna đã giữ một vai trò quyết định khi dâng hiến con mình cho Chúa. Một sứ mạng cũng quan trọng như vậy đã được thực hiên do một bà mẹ khác, bà Rêbecca, khi đi tìm kẻ kế nghiệp cho ông Giacóp (St 27). Trong sự can thiệp của bà mẹ chúng ta thấy dấu hiệu của một việc Chúa tuyển chọn làm dụng cụ cho chương trình của Người.
Chính Chúa đã chọn đứa em, ông Giacóp, như là người chuyển ban lời chúc phúc và gia tài của người cha, và như thế ông được chọn làm người chăn dắt và hướng dẫn dân mình. Chính Thiên Chúa là Đấng khoan dung và thượng trí đã ấn định và điều khiển vận mạng của từng người (Kn 10, 10-12).
Sứ điệp Kinh thánh về chức làm mẹ cho chúng ta thấy rất nhiều khía cạnh quan trọng vẫn còn giá trị cho đến ngày hôm nay: thực vậy, nó làm nêu bật tính cách ân huệ, được bày tỏ cách riêng trong trường hợp những bà son sẻ; giao ước đặc biệt giữa Thiên Chúa với người phụ nữ và mối dây liên kết giữa số phận của người mẹ và số phận của người con.
Đồng thời sự can thiệp của Thiên Chúa, vào những giai đoạn quan trọng của lịch sử Dân Người, đã ban cho những bà mẹ son sẻ được có con, đã chuẩn bị đức tin cho sự can thiệp của Thiên Chúa vào thời kỳ viên mãn, để làm cho một Trinh nữ mang thai để thực hiện việc Con Chúa nhập thể.