CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ
Chúa Nhật , ngày 11/05/2014
PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI
1. KHAI MẠC
(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)
1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần
Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.
ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.
2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
2. TIN MỪNG
(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)
Tin Mừng: Ga 10,1-10
1 “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp.2 Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.3 Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.4 Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.5 Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.”6 Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
7 Vậy, Đức Giê-su lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào.8 Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ.9 Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.10 Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
3. SUY NIỆM
“Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7).
Như Mẹ: Hôm nay, Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta biết Người yêu chúng ta như thế nào với hình ảnh của người mục tử và đàn chiên. Đối với chiên, Người là cửa để cho chiên ra vào, gìn giữ chiên cho được an toàn, ban sự sống dồi dào cho chiên và chấp nhận hy sinh cả tính mạng vì chiên.
Với Mẹ: Lạy Chúa, xin giúp con biết nhìn lại và đón nhận kế hoạch quan phòng của Chúa trong cuộc đời con, để con cảm nhận được rằng Chúa yêu con thật nhiều. Xin cho con nhạy cảm và biết chấp nhận rằng mọi biến cố xảy đến với con đều là tình thương của Chúa dành cho con.
Nhờ Mẹ: Mẹ ơi, xin giúp con luôn biết thinh lặng sống tâm tình cảm tạ Chúa, như Mẹ hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại những điều cao cả mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ và cho Mẹ.
4. LẦN HẠT MÂN CÔI
(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)
5. KẾT THÚC
(hát hoặc đọc)
1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa
ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.
1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.
2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.
3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.
2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.
Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA
BÀI 21: VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Bài huấn giáo hôm nay xét tới nền tảng Kinh thánh của chân lý Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội, qua việc khảo sát vài đoạn văn cổ điển: 1/ Lc 1,28: Đức Maria được thiên sứ gọi tên là “Đầy tràn ơn phúc”. 2/ St 3,15: mối thù truyền kiếp giữa người nữ đòi hỏi Đức Maria không hề ở dưới quyền hành của ma qủy. 3/ Kh 12,1: người nữ khoác áo mặt trời.
1.- Như chúng ta đã thấy trong những bài huấn dụ trước, trong suy tư đạo lý của Giáo hội bên Đông phương, thành ngữ “Đầy ơn phúc” từ thế kỷ thứ VI đã được giải thích về sự thánh thiện chi phối suốt cuộc đời Đức Maria. Như vậy Người đã khai trương một cuộc tạo dựng mới.
Bên cạnh trình thuật việc Truyền tin của thánh Luca, Truyền thống và Huấn quyền đã coi bản văn gọi là “Phúc âm nguyên thủy” (St. 3,15) như là một nguồn nữa của Sách Thánh bàn về chân lý Vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria.
Đoạn văn này, dựa theo bản dịch Latinh: “Bà sẽ đạp dập đầu ngươi”, đã gợi hứng cho rất nhiều bức họa vẽ Đức Vô nhiễm đạp con rắn ở dưới chân mình.
Trước đây chúng tôi đã có dịp lưu ý rằng bản dịch Latinh không có sát với nguyên bản Do thái, theo đó không phải là người nữ, nhưng là dòng dõi của bà, miêu duệ của bà, chà đạp đầu con rắn. Do đó bản văn quy gán sự chiến thắng Satan không phải là cho Đức Maria, nhưng là cho Con của Người. Tuy nhiên bởi vì quan niệm Kinh thánh đặt ra một sự liên kết chặt chẽ giữa cha mẹ với dòng dõi, cho nên cũng phù hợp với nghĩa nguyên bản khi trình bày Đức Nữ Vô nhiễm đạp dập đầu con rắn, không phải do quyền năng riêng của mình nhưng do ân huệ của Con mình.
2.- Hơn nữa, bản văn Kinh Thánh vừa nói còn nhắc tới sự thù địch giữa một bên là người phụ nữ và dòng dõi của người đó, còn bên kia là con rắn với dòng dõi của nó. Đó là một sự thù địch do chính Thiên Chúa đã ấn định và mang một ý nghĩa đặc biệt khi chúng ta nghĩa tới sự thánh thiện của Đức Trinh Nữ. Để có thể diễn tả sự thù địch giữa con rắn và dòng dõi của nó, Đức Maria cần phải được cứu thoát khỏi quyền lực của tội lỗi ngay từ lúc bắt đầu hiện hữu.
Về điểm này, thông điệp Fulgens Corona, do Đức Thánh Cha Piô XII công bố năm 1953 để kỷ niệm 100 năm tuyên bố tín điều Vô nhiễm nguyên tội, đã lý luận như sau: “Giả như đã có một lúc nào đó Đức thánh Trinh nữ Maria đã không được ơn thánh Chúa phù giúp, để cho vết nhơ của tội nguyên tổ chiếm đoạt, thì giữa Người và con rắn sẽ đâu còn sự thù địch truyền kiếp mà truyền thống đã nói tới khi định nghĩa tín điều Vô nhiễm nguyên tội; trái lại, đã xảy ra một sự khuất phục của Đức Maria đối với con rắn ”.
Vì thế sự thù địch tuyệt đối mà Chúa đã thiết lập giữa người nữ và ma quỷ đòi hỏi rằng nơi Đức Maria sự Vô nhiễm nguyên tội, nghĩa là hoàn toàn được cứu thoát khỏi tội lỗi ngay từ lúc bắt đầu hiện hữu. Người Con của Đức Maria đã mang lại chiến thắng trên Satan và đã cho bà Mẹ được hưởng trước cuộc chiến thắng đó, bằng cách cứu Người ra khỏi tội lỗi.
Do đó, Chúa Con đã ban cho Người quyền năng chống cự ma quỷ, và như thế trong mầu nhiệm vô nhiễm nguyên tội, Chúa đã thể hiện hậu quả của công trình cứu chuộc một cách lạ thường.
3.- Danh xưng “Đầy ơn phúc “và Phúc âm nguyên thủy, khi lôi kéo sự chú ý của chúng ta đến sự thánh thiện đặc biệt của Đức Maria và sự cứu thoát khỏi ảnh hưởng của Satan, làm cho chúng ta nghĩ tới, – qua một đặc ân duy nhất Chúa ban cho Đức Maria -, về sự khởi đầu một trật tự mới như là hậu quả của tình thân hữu với Thiên Chúa, và do đó tạo ra một sự thù địch giữa con rắn và loài người.
Khi tìm căn bản Kinh Thánh cho tín điều Vô nhiễm nguyên tội, người ta cũng thường trưng dẫnđoạn văn ở chương 12 sách Khải huyền, nói tới một “người nữ khoác áo mặt trời”(12,1). Khoa chú giải ngày nay đồng ý cho rằng người nữ tượng trưng cho cộng đoàn dân Chúa, đau đớn sinh ra Đấng Mêsia sống lại.
Tuy nhiên, bên cạnh việc giải thích theo nghĩa tập thể, bản văn cũng gợi ý nói tới một cá nhân khi khẳng định rằng: “Bà ấy sẽ sinh ra một con trai, được sắp xếp để thống trị các dân nước bằng vương miện bằng sắt” (12,5). Như vậy, liên quan tới việc sinh con, người ta chấp nhận có sự đồng hóa người nữ khoác áo mặt trời với Đức Maria, người đàn bà đã sinh ra Đấng Mêsia. Thực vậy, người đàn bà “tập thể” được miêu tả với những nét tương tự như người đàn bà Thân mẫu Đức Giêsu.
Đặc trưng của người đàn bà này là việc làm mẹ: bà “thụ thai và kêu gào vì những sự đau quặn lúc sinh” (12,2). Chi tiết này gợi lên cảnh tượng Thân mẫu Đức Giêsu đứng gần bên Thập giá (xc. Ga19,25), nơi mà Người thông dự vào cuộc sinh hạ cộng đoàn các tín hữu với tâm hồn bị luỡi gươm đâm thâu qua (xc. Lc 2, 35).
Mặc dù đau đớn, nhưng bà “được khoác áo mặt trời”, – nghĩa là bà phản chiếu ánh quang của Thiên Chúa, và trở thành “một điềm lạ vĩ đại” của mối tương quan tình thương của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Tuy những hình ảnh này không đả động trực tiếp đến ân huệ Vô nhiễm nguyên tội, nhưng chúng có thể được giải thích như là cách diễn tả lòng âu yếm của Chúa Cha đã bao trùm Đức Maria bằng ân phúc của Đức Kitô và ánh quang của Chúa Thánh Thần.
Sau cùng, sách Khải huyền còn mời gọi hãy nhìn chiều kích Giáo hội nơi bản thân Đức Maria: người đàn bà khoác áo mặt trời tượng trưng cho sự thánh thiện của Hội thánh, sự thánh thiện này đã được thực hiện toàn vẹn nơi Thánh Trinh nữ, do một ân huệ đặc biệt.
4.- Đối lại với những lời khẳng định đặc biệt của Kinh thánh mà Truyền thống và Huấn quyền dựa vào để chứng minh đaọ lý về sự Vô nhiễm nguyên tội, xem ra có những vấn nạn dựa trên nhữngđoạn văn Kinh thánh nói tới tội lỗi tràn ngập nhân loại.
Cựu ước nói tới một sự ô nhiễm tội lỗi chi phối hết mọi người “sinh ra bởi người nữ” (Tv 50,7; G 14,2). Trong Tân ước, Thánh Phaolô tuyên bố rằng do tội của ông Ađam, “tất cả mọi người đều mắc tội” và “vì tội của một người mà sự luận phạt đã được đổ xuống hết mọi người” (Rm 5,12.18). Vì thế, như sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo đã nói, tội nguyên tổ đã “chi phối bản tính con người”, vì thế nó bị “rơi vào tình trạng suy đồi”. Tội đã được truyền lại “do sự phát triển của nhân loại, nghĩa là do việc truyền đạt bản tính con người đã mất ơn thánh và sự công chính nguyên thủy” (s.404). Tuy nhiên thánh Phaolo đã khẳng định một khỏan trừ của định luật tổng quát vừa nói: đó là Đức Kitô, Đấng đã “không biết chi đến tội lỗi” (2Cor 5,21), và như thế Người có thể mang ơn thánh dồi dào đến nơi “mà tội lỗi tràn ngập” (Rm 5,20).
Những lời vừa nói không hẳn đưa tới kết luận rằng Đức Maria cũng bị gộp trong vòng nhân loại tội lỗi. Sự so sánh của thánh Phaolô giữa ông Ađam với Đức Kitô được bổ túc với sự so sánh giữa bà Evà với Đức Maria. Vai trò của người nữ vào lúc xảy ra bi kịch tội lỗi cũng được diễn lại vào lúc cứu chuộc nhân loại.
Thánh Irênêô đã trình bày Đức Maria như là bà Eva mới: Đức Maria nhờ lòng tin và sự tuân phục đã làm nghiêng lại cán cân của sự bất tín và bất tuân của bà Eva. Một vai trò như vậy trong lịch sử cứu độ đòi hỏi phải được miễn trừ khỏi tội lỗi. Vì thế, cũng tương tự như Đức Kitô Adam mới, thực là một điều xứng hợp cho Đức Maria bà Eva mới, cũng không biết đến tội lỗi và như thế có khả năng cộng tác vào công cuộc cứu chuộc.
Tội lỗi, ví như dòng thác lôi cuốn tất cả nhân loại đã phải dừng lại trước Đấng Cứu Thế và cộng-sự-viên trung tín của Người. Dĩ nhiên là có một sự khác biệt căn bản: Đức Kitô hoàn toàn thánh thiện do hiệu lực của ơn kết hợp nhân tính với thiên tính; còn Đức Maria được nên thánh do ân sủng được lãnh nhận nhờ công trạng của Chúa Cứu Thế.
BÀI 22: VÔ NHIỄM: ĐƯỢC CỨU CHUỘC
NHỜ ĐƯỢC PHÒNG NGỪA TỘI LỖI
Tiếp tục trình bày sự tiến triển của đạo lý về Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội, trong bài huấn giáo hôm nay, Đức Thánh Cha đề cập đến một vấn nạn then chốt nảy ra vào thời Trung cổ: nếu Đức Maria không mắc tội – tội nguyên tổ cũng như tội cá nhân – thì Người đâu cần ơn cứu chuộc của Chúa Kitô? Chân phước Duns Scôtô đã tìm ra một câu trả lời: Đức Maria vẫn cần được Chúa Kitô cứu chuộc; tuy nhiên ơn cứu chuộc tác động nơi Đức Maria theo một cách thức khác với chúng ta. Người được phòng ngừa khỏi mắc tội lỗi, còn chúng ta được cứu ra khỏi tình trạng vướng mắc tội lỗi.
1.- Đạo lý về sự thánh thiện của Đức Maria ngay từ khi thụ thai đã gặp phải vài sự chống đối ở bên Tây phương, bởi vì nó đụng tới những lời khẳng định của thánh Phaolô về tội nguyên tổ và về sự bành trướng của tội lỗi trên toàn thể nhân loại; những luận cứ cũng đã được thánh Augustinô lặp lại và khẳng định.
Thực ra thánh Augustinô đã nhìn nhận Đức Maria được thanh tịnh hoàn toàn và thánh thiện vô song, xét vì Người được Chúa chọn làm Mẹ của một người Con cực thánh. Chính vì thế, trong cuộc tranh luận với ông Pelagiô, thánh Augustinô nhấn mạnh rằng sự thánh thiện của Đức Maria là một hồng ân ngoại lệ của ơn thánh, và ông nói như sau :” Chúng ta hãy miễn trừ Đức Maria, tôi không muốn rằng chúng ta nói tới tội lỗi ở nơi Người bởi vì chúng ta cần phải tôn kính Thiên Chúa: nào chúng ta không biết rằng Người đã được ban một ơn ngoại lệ nhằm để chiến thắng hoàn toàn tội lỗi, Người đã xứng đáng thụ thai và sinh hạ Đấng không hề mắc tội lỗi nào hết hay sao ?” (De natura et gratia, 42).
Thánh Augustino đã nhấn mạnh tới sự thánh thiện hoàn toàn nơi Đức Maria và Người không mắc tội lỗi cá nhân nào chiếu theo chức phẩm cao vời làm Thân mẫu Thiên Chúa. Tuy nhiên ông không thể nào quan niệm được Đức Maria hoàn toàn thoát khỏi hết mọi tội lỗi ngay từ lúc thụ thai, bởi vì điều này không thể dung hợp được với đạo lý về mọi người đều mắc tội tổ tông và đạo lý về mọi người con cháu Adam đều cần được cứu chuộc. Để có thể giải quyết vấn nạn này, cần phải đào sâu sự hiểu biết đức tin của Giáo hội thì mới làm sáng tỏ được vấn đề Đức Maria đã có thể hưởng nhờ hồng ân cứu chuộc của Đức Kitô ngay từ lúc thụ thai.
2.- Vào thế kỷ thứ IX, lễ Thụ thai của Đức Maria đã du nhập vào Tây phương, đầu tiên là tại miền Nam nước Italia, ở Napoli, rồi sang Anh quốc.
Vào khoảng năm 1128, một đan sĩ ở Canterbury, ông Eadmêrô đã viết khảo luận đầu tiên về việc Thụ thai Vô nhiễm. Ông than phiền rằng lễ phụng vụ đã bị dẹp bỏ, mặc dù lễ này mang lại sự thích thú cho những kẻ “chất phát và khiêm tốn phụng sự Chúa” (Tractatus de conceptione B.M.V. 1-2). Vì muốn cổ động tái lập lễ này, ông đã gạt bỏ vấn nạn của thánh Augustinô chống lại đặc ân vô nhiễm nguyên tội căn cứ vào đạo lý về sự truyền bá tội nguyên tổ cho toàn thể dòng dõi nhân loại. Ông Eadmerô sử dụng hình ảnh của một trái dẻ “được mọc giống, nuôi dưỡng và hình thành ở gai góc nhưng vẫn không bị gai đâm” (Tractatus, 10). Rồi ông lập luận như sau: “giữa những gai nhọn của sự sinh sản tự nó truyền thông tội nguyên tổ, Đức Maria đã được che chở cho khỏi mọi vết nhơ do ý muốn của Thiên Chúa, Đấng đã “có thể làm và đã muốn như vậy. Do đó nếu Chúa đã muốn thì tất nhiên Người đã làm”.
Dù ông Eadmerô đã dẫn một chứng cớ thuận lợi, nhưng những nhà thần học thế kỷ XIII vẫn còn quay về những vấn nạn do thánh Augustino đưa ra, và họ lập luận như sau: ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại sẽ không còn tính cách phổ quát nếu điều kiện tội lỗi đã không bao trùm tất cả mọi người. Nếu Đức Maria đã không mắc tội nguyên tổ, thì Người không cần được cứu chuộc. Thực vậy, ơn cứu chuộc hệ tại sự giải thoát những người ở trong tình trạng tội lỗi.
3.- Tiếp theo một vài nhà thần học thế kỷ XII, ông Duns Scôtô đã cung cấp chìa khóa để vượt qua những vấn nạn về đạo lý Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội. Ông chủ trương rằng Đức Kitô, Đấng Trung gian hoàn hảo, đã thực hiện việc trung gian nơi Đức Maria một cách tuyệt vời, bằng cách phòng ngừa Đức Maria khỏi tội Nguyên tổ.
Nhu vậy, ông Duns Scôtô đã du nhập vào thần học tư tưởng “cứu chuộc phòng ngừa”, theo đó Đức Maria được cứu chuộc một cách rất lạ lùng: không phải bằng cách giải thoát khỏi tội lỗi, nhưng bằng cách phòng ngừa cho khỏi tội lỗi.
Quan điểm của ông Duns Scôtô, được đặt tên là “Tiến sĩ của đạo lý Vô nhiễm”, từ thế kỷ thứ XIV trở đi đã được nhiều nhà thần học, cách riêng thuộc dòng Phanxicô, tán thành. Sau khi Đức Giáo Hoàng Sixtô IV phê chuẩn Bài Lễ Thụ thai vô nhiễm năm 1477, đạo lý này dần dần được các trường phái thần học khác chấp nhận.
Sự tiến triển về phụng vụ và về đạo lý đã chuẩn bị con đường đưa tới việc định tín về phía Huấn quyền tối thượng. Điều này chỉ đạt được sau nhiều thế kỷ, duới sự thúc đẩy của một trực giác đức tin căn bản đó là: Thân mẫu Đức Kitô phải được thánh thiện hoàn toàn ngay từ lúc bắt đầu hiện hữu.
4.- Không ai không nhận ra rằng đặc ân ban cho Đức Maria làm nổi bật tác động cứu chuộc của Đức Kitô, Đấng không những chỉ giải thoát mà còn phòng ngừa khỏi tội lỗi. Chiều kích phòng ngừa – được thể hiện hòantoàn nơi Đức Maria – nằm trong chương trình cứu chuộc của Đức Kitô, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi, và còn ban cho nó ân huệ và sức mạnh để chiến thắng ảnh hưởng của tội lỗi trong suốt đời mình.
Như thế, tín điều Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội không làm lu mờ nhưng còn làm nổi bật những hậu quả của ơn cứu chuộc của Đức Kitô đối với bản tính nhân loại. Tất cả các Kitô hữu nhìn lên Đức Maria, – người đầu tiên được Đức Kitô cứu chuộc, người đã được đặc ân không hề bị lệ thuộc quyền năng của sự dữ và tội lỗi -, như là một khuôn mẫu hòantoàn và bức chân dung sống động của sự thánh thiện (xc. HT 65); sự thánh thiện mà họ được kêu gọi đạt tới trong cuộc sống, nhờ ơn thánh Chúa.