CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ
Thứ Hai, ngày 12/05/2014
PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI
1. KHAI MẠC
(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)
1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần
Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.
ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.
2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
2. TIN MỪNG
(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)
Tin Mừng: Ga 10,11-18
11 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn,13 vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.14 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi,15 như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
16 Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.17 Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại.18 Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”
3. SUY NIỆM
“Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14).
Như Mẹ: Chúa Giêsu biết rõ từng con chiên. Người biết rõ chiên hơn chiên biết về mình. Người biết chiên nhiều hơn là chiên biết Người? Thiên Chúa biết rõ mỗi người chúng ta. Ngài đã sai Con Một của mình mặc khải cho chúng ta biết Ngài thương chúng ta chừng nào. Vậy chúng ta có thật sự khao khát để biết và yêu mến Ngài không? Chúng ta có tha thiết tìm về với Chúa là Đấng hằng yêu thương chúng ta?
Với Mẹ: Lạy Chúa, hạnh phúc của con là được biết Chúa, biết Đức Giêsu mà Chúa đã ban để cứu con và cho con có được sự sống đời đời. Xin cho con đừng bám víu vào đời này, mà biết năng đến với bí tích Thánh Thể, ngồi thing lặng bên Chúa để con được biết Chúa nhiều hơn.
Nhờ Mẹ: Xin Mẹ giúp con theo gương Mẹ cũng biết lắng nghe Lời Chúa, rồi cũng biết yêu Chúa trọn cả cuộc đời.
4. LẦN HẠT MÂN CÔI
(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)
5. KẾT THÚC
(hát hoặc đọc)
1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa
ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.
1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.
2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.
3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.
2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.
Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA
BÀI 23: VIỆC TUYÊN BỐ TÍN ĐIỀU VÔ NHIỄM
Bài huấn giáo hôm nay giải thích nội dung của tín điều Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội, được long trọng tuyên bố do Đức Giáo hoàng Piô IX, với sắc chiếu fabiIneflis Deus, ngày 8.12.1854. Vài chi tiết của tín điều được đức Piô XII bổ túc trong thông điệp Fulgens Doctrina, nhân dịp kỷ niệm 100 năm công bố.
1.- Niềm xác tín rằng Đức Maria đã được phòng ngừa khỏi hết mọi tì vết tội lỗi ngay từ lúc thụ thai, đến nỗi có thể đáng được gọi là Đấng toàn thánh, trải qua dòng thời gian đã đâm sâu vào phụng vụ và thần học. Vào đầu thế kỷ thứ XIX, sự tiến triển đó đã gợi lên một phong trào thỉnh nguyện khi tuyên bố tín điều về đặc ân Vô nhiễm nguyên tội.
Đáp lại lời yêu cầu đó, vào giữa thế kỷ, Đức Thánh Cha Piô IX, sau khi đã tham khảo các nhà thần học, đã thỉnh ý tất cả các Giám mục về việc có nên và có thể định nghĩa tín điều hay không, ra như triệu tập một “công đồng bằng thư tín”. Kết quả thực là đầy ý nghĩa: đại đa số 604 Giám mục đã trả lời đồng ý với đề nghị.
Sau khi đã xúc tiến cuộc tham khảo rộng rãi, biểu lộ mối ưu tư của Đức Piô IX trước việc phát biểu đức tin của Hội thánh khi xác định tín điều, ngài cũng rất cẩn thận trong việc soạn thảo văn kiện.
Ủy ban thần học, do Đức Thánh Cha Piô IX thiết lập để khảo sát về chân lý mạc khải, đã dành cho sự sống đạo của Giáo hội một vai trò quan yếu. Chính tiêu chuẩn này đã ảnh hưởng tới việc phát biểu tín điều, bởi vì những biểu thức của đời sống Hội thánh, của đức tin và phụng tự của Dân Chúa, chiếm chỗ đứng đặc biệt hơn là những lý luận của kinh viện.
Sau cùng, năm 1854, Đức Piô IX, với sắc chiếu Ineffabilis, đã long trọng công bố tín điều Vô nhiễm nguyên tội như sau: “Chúng tôi long trọng tuyên bố (declaramus, pronuntiamus et definimus) rằng đây là một đạo lý được Chúa mặc khải: Trinh nữ Maria rất thánh, ngay từ lúc đầu tiên thụ thai, đã được phòng ngừa khỏi tì ố của tội nguyên tổ, nhờ ân sủng diệu kỳ và do đặc ân của Thiên Chúa toàn năng, và vì nhắm tới công trạng của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc nhân loại. Vì vậy, chân lý đó cần phải được hết mọi tín hữu tin vững chắc”.
2.- Lời công bố tín điều Vô nhiễm đã diễn tả nòng cốt của dữ kiện đức tin. Đức Giáo Hoàng Alêxandrô VII, trong sắc chiếu Sollicitudo, năm 1661, đã nói tới ơn phòng ngừa của linh hồn Đức Maria “vào lúc được dựng nên và phú bẩm vào trong thân xác”. Trái lại, định tín của Đức Piô IX không đả động gì đến cách thức phú bẩm linh hồn vào trong thân xác, và áp dụng việc được gìn giữ khỏi mọi tì ố của tội nguyên tổ cho bản thân Đức Maria, vào giây phút đầu tiên của việc thụ thai.
Việc phòng ngừa “khỏi mọi tì ố của tội nguyên tổ” cũng bao hàm một hệ quả tích cực là sự phòng ngừa khỏi hết mọi tội lỗi, và việc công bố Đức Maria thánh thiện hoàn toàn. Đạo lý được sự công bố tín điều mang lại sự đóng góp quan trọng. Thực vậy, việc diễn tả đặc ân một cách tiêu cực, – bị chi phối do những cuộc tranh luận bên Tây phương về tội nguyên tổ -, cần được bổ túc bằng việc phát biểu tích cực về sự thánh thiện của Đức Maria, được truyền thống Đông Phương nhấn mạnh rõ rệt.
Sự tuyên tín của Đức Piô IX chỉ nói tới sự gìn giữ khỏi tội nguyên tổ và không minh thị bao hàm sự gìn giữ khỏi các dục vọng. Tuy nhiên, việc Đức Maria được gìn giữ khỏi hết mọi vết nhơ tội lỗi cũng mang theo hệ luận rằng Người cũng được giữ gìn cho khỏi những dục vọng, nghĩa là những khuynh hướng vô trật tự, theo như công đồng Trentô đã nói, xuất phát từ tội lỗi và hướng chiều về tội lỗi.
3.- “Nhờ ân sủng diệu kỳ và do đặc ân của Thiên Chúa toàn năng”, sự gìn giữ khỏi tội nguyên tổ là một đặc ân của Thiên Chúa có tính cách hoàn toàn nhưng-không, mà Đức Maria đã lãnh nhận ngay từ lúc đầu tiên của sự hiện hữu.
Công thức định tín không nói rằng đây là một đặc ân độc nhất vô nhị, nhưng hiểu ngầm như vậy. Tính cách độc nhất vô nhị được khẳng định rõ rệt trong thông điệp Fulgens corona, năm1953, khi Đức Thánh Cha Piô XII nói tới “một đặc ân duy nhất không hề được ban cho một ai khác”, như vậy đã loại trừ ý kiến (tuy chẳng có nền tảng) của vài người nghĩ rằng đặc ân cũng có thể được ban cho Thánh Giuse.
Trinh nữ Maria đã lãnh nhận đặc ân Vô nhiễm nguyên tội “nhắm tới công trạng của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc nhân loại”, nghĩa là nhờ việc cứu chuộc phổ quát của Chúa Kitô.
Bản văn định tín không nói minh thị rằng Đức Maria đã được cứu chuộc; tuy vậy, sắc chiếu Ineffabilis đã khẳng định ở một chỗ khác rằng “Người đã được cứu chuộc cách vượt bực”. Đây là một chân lý diệu kỳ: Đức Kitô là kẻ cứu chuộc Thân mẫu của mình và đã tác động nơi Người một sự cứu chuộc “một cách hết sức tuyệt hảo”(Fulgens corona), ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc hiện hữu. Công đồng Vaticano II đã tuyên bố rằng Hội thánh “trầm trồ tán dương nơi Đức Maria hoa trái phúc lộc nhất của cuộc Cứu chuộc” (Hiến chế Phụng vụ số 103).
4.- Đạo lý được long trọng công bố như là “do Chúa mặc khải”. Đức Giáo Hoàng Piô IX thêm rằng chân lý đó “cần phải được hết mọi tín hữu tin vững chắc”. Do đó, những ai không chấp nhận, hoặc duy trì một ý kiến đối nghịch thì “đức tin của ho bị chìm đắm” và “đã tự tách rời khỏi sự hợp nhất công giáo”.
Khi công bố chân lý về tín điều Vô nhiễm nguyên tôi, vị tiền nhiệm của tôi đã ý thức rằng mình đang thực hiện quyền giáo huấn bất khả ngộ với tư cách là mục tử của toàn thể Hội thánh, một điều sẽ được định tín tại công đồng Vaticano I sau đó. Người đã dùng quyền giáo huấn bất khả ngộ nhằm phục vụ đức tin của toàn thể Dân Chúa. Thực là có ý nghĩa khi mà sự phục vụ thể hiện qua việc xác định một đặc ân của Đức Maria.
BÀI 24: THÁNH THIỆN SUỐT ĐỜI
Tự nó, tín điều Vô nhiễm nguyên tội chỉ khẳng định rằng Đức Maria được phòng ngừa khỏi tì ố của tội nguyên tổ. Tuy nhiên, truyền thống Hội thánh, nhất là bên Đông phương, đã nhìn Đức Maria như Đấng “Toàn thánh” (hoàn toàn thánh thiện). Người không mắc tội riêng cũng không mắc những khiếm khuyết luân lý.
1.- Việc xác định tín điều Vô nhiễm nguyên tội chỉ nhắm trực tiếp đến lúc đầu tiên của cuộc đời Đức Maria; ngay từ lúc ấy Người đã được “phòng ngừa khỏi hết mọi tì ố của tội nguyên tổ”. Như vậy Huấn quyền của Đức Thánh Cha chỉ muốn xác định chân lý đã trở thành đối tượng của những cuộc tranh luận trải qua các thế kỷ: việc phòng ngừa khỏi tội nguyên tổ, chứ không bận tâm đến việc định nghĩa sự thánh thiện suốt đời của Đức Trinh nữ Thân mẫu của Chúa. Chân lý này đã nằm trong cảm thức chung của các Kitô hữu rồi. Cảm thức này chứng thực rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ thì cũng được giữ gìn cho khỏi hết mọi tội cá nhân, và sự thánh thiện nguyên thủy đã được ban cho Người hầu làm tràn đầy trót cuộc sống của mình.
2.- Hội thánh luôn luôn nhìn nhận rằng Đức Maria thánh thiện và được thoát khỏi hết mọi tội lỗi và mọi khiếm khuyết luân lý. Công đồng Trentô bày tỏ niềm xác tín đó khi quả quyết rằng không ai “có thể tránh được, trong suốt cuộc đời, khỏi hết mọi tội lỗi dù là tội nhẹ đi nữa, nếu không do một đặc ân khác thường, như Hội thánh vẫn hiểu về Đức Thánh Trinh nữ” (DS 1573). Kể cả người Kitô hữu, dẫu đã được ơn thánh biến đổi và canh tân, vẫn còn có thể phạm tội. Thực vậy, ơn thánh không phòng ngừa khỏi hết mọi tội lỗi trong suốt đời, trừ khi nào được một đặc ân đảm bảo sự miễn trừ tội lỗi, như công đồng Trentô đã khẳng định. Điều này đã xảy ra nơi Đức Maria.
Công đồng Trentô đã không muốn định tín về đặc ân này, nhưng đã tuyên bố rằng Hội thánh “chủ trương” (tenet), nghĩa là nắm giữ, khẳng định chắc chắn. Đây là một sự lựa chọn từ ngữ nhấn mạnh đến tính cách vững chắc của đạo lý, chứ không muốn xếp vào những loạai lòng tin tưởng đạo đức hay ý kiến sốt sắng; chân lý này đã hiên diện trong niềm tin của Dân Chúa. Mặt khác, niềm thâm tín đó dựa trên ân phúc mà thiên thần nhận thấy nơi Đức Maria vào lúc Truyền tin. Khi gọi Người là “Đấng đầy ân phúc”, kekharitomênê, thiên sứ đã nhìn nhận nơi Người một phụ nữ được trang điểm bằng sự toàn hảo bền vững và sự tràn đầy thánh thiện, không có bóng dáng tội lỗi, không có khiếm khuyết về luân lý và đạo đức.
3.- Một vài giáo phụ thuộc những thế kỷ đầu tiên, khi chưa thủ đắc niềm thâm tín về sự thánh thiện toàn diện của Đức Maria, cho nên đã gán cho Người một vài sự bất toàn hay khuyết điểm. Ngay cả một vài tác giả gần đây cũng lấy lại ý kiến đó. Tuy nhiên những bản văn Phúc âm được họ trưng dẫn để bảo vệ ý kiến này không thể nào cho phép dùng làm cơ sở để khẳng định về một tội lỗi hay bất toàn luân lý ở nơi Thân mẫu Đấng cứu chuộc.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho Thân mẫu của mình, lúc lên 12 tuổi: “Tại sao ông bà tìm tôi? Ông bà không biết rằng tôi phải lo lắng những công chuyện của Cha tôi sao?”(Lc 2,49), đôi khi đã được giải thích như là một lời trách móc kín đáo. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ bản văn hơn thì chúng ta thấy rằng Đức Giêsu đã không khiển trách bà mẹ và ông Giuse vì đã đi tìm Người, xét vì hai vị có trách nhiệm phải trông nom mình.
Khi gặp lại Đức Giêsu sau khi đã khổ cực tìm kiếm, Đức Maria chỉ muốn hỏi lý do của cách cư xử như vậy: “Con ơi, tại sao con đã làm như vậy?” (Lc 2,48). Và Đức Giêsu đã trả lời bằng việc giải thích “tại sao”, chứ không hề trách móc; Người chỉ gợi lên mầu nhiệm mình là con Thiên Chúa.
Những lời nói tại Cana: “Này bà, việc gì đến bà với tôi? Giờ tôi chưa tới” (Ga 2, 4), cũng không thể nào được giải thích như là một lời trách móc.
Đứng trước cảnh lúng túng sẽ xảy ra cho đôi tân hôn vì thiếu rượu, Đức Maria ngỏ lời với Đức Giêsu một cách đơn sơ, tỏ bày vấn đề cho Người biết. Đức Giêsu, tuy biết mình là Đấng Mêsia chỉ phải vâng theo ý của Cha, đã đón nhận lời yêu cầu của Mẹ. Nhất là Người đã đáp lại đức tin của Đức Trinh nữ, và như vậy Người đã khởi đầu những phép lạ, bày tỏ vinh quang của Người.
4.- Một vài tác giả khác cũng giải thích theo lối tiêu cực lời tuyên bố của Đức Giêsu, khi mà vào lúc bắt đầu cuộc đời công khai, Đức Maria và thân quyến muốn được gặp Người. Khi kể lại câu trả lời của Đức Giêsu đối với kẻ trình rằng: “Kìa mẹ và anh em của Thầy đứng ở ngoài và muốn gặp Thầy”, thánh sử Luca đã cho chúng ta chìa khóa để giải thích câu chuyện, nghĩa là phải đi từ tâm tình nội tại của Đức Maria, khác hẳn với những “anh em họ hàng” (xc. Ga 7,5).
Đức Giêsu trả lời: “Mẹ tôi và anh em tôi là những người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8, 21). Thực vậy, trong trình thuật Truyền tin, ông Luca đã trình bày Đức Maria như là khuôn mẫu của viêc lắng nghe Lời Chúa và sự quảng đại tuân hành. Được giải thích trong bối cảnh đó, câu chuyện này trở thành một dịp ca ngợi Đức Maria, kẻ đã chu toàn kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình. Những lời của Đức Giêsu, vừa chống lại mưu toan của anh em họ hàng, vừa tán dương lòng trung thành của Đức Maria đối với ý của Chúa cũng như vẻ cao cả của Người đã làm mẹ không những về thể lý mà nhất là về tinh thần.
Khi bày tỏ sự ca ngợi một cách gián tiếp như vậy, Đức Giêsu đã sử dụng một phương pháp độc đáo: Người đã nêu bật thái độ cao quý của Đức Maria, dưới ánh sáng của những lời khẳng định mang tính cách phổ quát, và bày tỏ sự liên đới và gần gũi của Đức Trinh nữ đối với nhân loại đang tiến lên con đường khó nhọc của việc nên thánh.
Sau cùng, những lời mà Chúa Giêsu dùng để đáp lại lời của một phụ nữ khen bà mẹ của mình có phúc: “Phúc cho những người lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ!” (Lc 11, 28), không hề nghi ngờ sự toàn thiện của Đức Maria; trái lại, muốn nêu bật việc Người trung tín chu toàn Lời của Chúa: đó là điều mà Hội thánh vốn hiểu khi dùng những lời đó vào những lễ phụng vụ kính Đức Maria.
Thực vậy, bản văn Phúc âm, qua những lời tuyên bố của Đức Giêsu, đã muốn bày tỏ lý do cao quý nhất của Đức Mẹ nằm ở chỗ kết khắng khít với Thiên Chúa và gắn bó hoàn toàn với Lời Chúa.
5.-Đặc ân mà Thiên Chúa đã ban cho Đấng “Toàn thánh” đưa chúng ta đến chỗ ca ngợi những kỳ công mà ơn thánh đã thực hiện trong cuộc đời Đức Maria.
Đặc ân đó cũng nhắc nhở chúng ta rằng Đức Maria luôn luôn thuộc về Chúa, và không có sự bất toàn nào làm sứt mẻ sự hòa hợp giữa Người với Thiên Chúa.
Do đó, cuộc sống dương thế của Người được đánh dấu bằng việc tiến triển không ngừng về đức tin, cậy và mến. Vì vậy, đối với các tín hữu, Đức Maria là dấu hiệu sáng ngời của lòng Chúa khoan dung và là kẻ hướng dẫn chắc chắn tiến tới những đỉnh cao của sự trọn lành Phúc âm và sự thánh thiện[1].
[1] Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã trình bày cả hai khía cạnh: tiêu cực, Đức Maria không mắc tì ố tội lỗi (số 488-493); tích cực, Người là Đấng Toàn thánh (số 721-726; 2767). Đức Maria được vô nhiễm nhờ ơn thánh gìn giữ khỏi tội lỗi, và trở thành lý do để chúng ta tin tưởng vào quyền năng của ơn thánh gìn giữ chúng ta khỏi phạm tội (số 2853-2854). Nơi Đấng Toàn thánh, chúng ta chiêm ngưỡng lý tưởng thánh thiện (số 829; 967).