Ngàn Hoa Dâng Mẹ – Ngày 15

CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ

Thứ Năm, ngày 15/05/2014

 

PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI

1. KHAI MẠC

(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)

1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần

Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.

ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.

2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần

Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.

Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.

Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

 

2. TIN MỪNG

(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)

Tin Mừng: Ga 13,16-20

16 Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi.17 Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!18 Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.19 Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu.20 Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”

 

3. SUY NIỆM

 “Ai tiếp đón người Thầy sai đến
là tiếp đón Thầy” (Ga 13,20).

Như Mẹ: Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ đối xử với nhau như Chúa đã đối xử với các ông. Người muốn tất cả chúng ta hãy mở lòng ra đón nhận anh chị em xung quang mình, nhất là những người nghèo khổ, tội lỗi. Chính Thiên Chúa  đã nhân từ mở lòng đón nhận chúng ta là những kẻ tội lỗi hèn kém, thì chúng ta cũng phải đối xử với người khác như thế.

Với Mẹ: Lạy Chúa, chúng con sợ rằng khi cho đi thì mình sẽ trắng tay và sống yêu thương như Chúa dạy thì sẽ thiệt thòi. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết mở lòng với những người khác. Xin Chúa đừng bỏ chúng con, nhưng xin đón nhận chúng con như con cái của Chúa.

Nhờ Mẹ: Xin Mẹ giúp sức để chúng con sống hiệp nhất yêu thương như Chúa dạy.

 

4. LẦN HẠT MÂN CÔI

(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)

 

5. KẾT THÚC

(hát hoặc đọc)

1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa

ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.

1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.

2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.

3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.

2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.

Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.

 

PHẦN II:  TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA

BÀI 29: ĐỨC MARIA MẪU GƯƠNG TRINH KHIẾT

Trước đây (bài 27), Đức Thánh Cha đã bàn đến việc Đức Maria quyết tâm giữ mình trinh khiết. Các giáo phụ đã nhìn nhận Đức Maria như mẫu gương cho đời sống trinh khiết trong Giáo hội. Đáp lại tiếng gọi mà Chúa Thánh thần gợi lên trong con tim, nhiều tín hữu đã khấn giữ trinh khiết theo gương Đức Maria. Họ muốn dâng hiến trót cả cuộc đời để bày tỏ sự gắn bó với tình yêu Chúa, phục vụ tha nhân, tiên báo Nước Trời mai hậu.

1.- Sự quyết tâm giữ mình trinh khiết, được bày tỏ qua những lời của Đức Maria vào lúc Truyền tin, đã được truyền thống coi như là khởi đầu và cảm hứng cho đời sống trinh khiết ở trong Hội thánh.

Thánh Augustinô nhìn nhận rằng sự quyết tâm như vậy không phải nhằm để thực hành một lệnh truyền của Thiên Chúa nhưng là một sự khấn hứa tự nguyện. Như thế, có thể giới thiệu Đức Maria làm khuôn mẫu cho các “thánh trinh nữ” dọc theo dòng lịch sử của Giáo hội. Đức Maria “đã hiến dâng sự trinh khiết của mình cho Thiên Chúa, khi bà chưa biết kẻ mà mình sẽ thụ thai, ngõ hầu việc bắt chước cuộc sống thiên giới ở trong một thân xác phàm tục mỏng dòn được thi hành bằng lời khấn hứa chứ không phải vì luật truyền, bằng việc lựa chọn tình yêu chứ không phải vì sự cấp bách phục vụ” (De Sancta virginitate IV,4).

Thiên sứ không đòi Đức Maria phải tiếp tục giữ mình trinh khiết; nhưng chính Đức Maria đã tự động bày tỏ ý định giữ mình trinh khiết. Quyết tâm này cho thấy một sự lựa chọn tình yêu để hiến dâng toàn thân cho Thiên Chúa với một cuộc đời trinh khiết.

Tuy đề cao quyết định tự phát của Đức Maria, nhưng chúng ta đừng nên quên rằng khởi nguyên của hết mọi ơn gọi là sáng khởi của Thiên Chúa. Khi nhắm tới cuộc sống trinh khiết, thiếu nữ Nazaret đã đáp lại một tiếng gọi nội tâm, nghĩa là đáp lại linh ứng của Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho Người biết về ý nghĩa và giá trị của sự hiến thân trinh khiết. Không ai có thể đón nhận hồng ân đó nếu không cảm thấy mình được kêu gọi và nếu không nhận được ánh sáng và sức mạnh cần thiết do Chúa Thánh Thần.

2.- Tuy dù Thánh Augustinô đã dùng từ “khấn hứa” (votum) để cho những người mà ông gọi là “thánh trinh nữ” có thể tìm thấy một mẫu gương cho bậc sống của mình, nhưng Phúc âm không nói tới việc Đức Maria đã minh thị tuyên khấn. Sự khấn hứa là một hình thức tận hiến và dâng mình cho Thiên Chúa, thịnh hành vào những thế kỷ đầu tiên của Giáo hội. Theo Phúc âm chúng ta chỉ biết là Đức Maria đã quyết định duy trì đức trinh khiết, hiến dâng con tim của mình cho Thiên Chúa.

Đức Maria đã muốn trở thành người hiền thê chung thủy của Chúa, thực hiện ơn gọi của “thiếu nữ Sion”[1]. Tuy vậy, do quyết định của mình, Đức Maria đã trở thành khuôn mẫu cho tất cả những kẻ nào trong Giáo hội đã chọn lựa việc phục vụ Thiên Chúa với con tim không chia sẻ trong bậc trinh khiết.

Phúc âm và các bản văn khác của Tân ước không nói cho chúng ta biết vào lúc nào Đức Maria đã lựa chọn sống trinh khiết. Tuy nhiên, qua lời chất vấn thiên sứ thì đã rõ là vào lúc Truyền tin, sự dốc tâm đó đã trở nên vững chắc rồi. Đức Maria đã không ngại bày tỏ ước muốn duy trì sự trinh khiết kể cả trong viễn ảnh của chức làm mẹ, và cho thấy rằng Người đã suy nghĩ chín chắn về điều đó.

Thực vậy, Đức Maria lựa chọn sống trinh khiết không phải là để làm Mẹ của Thiên Chúa, một điều không thể nào lường trước được; nhưng sự lựa chọn đã được chín mùi trong thâm tâm trước khi xảy ra biến cố Truyền tin. Chúng ta có thể giả thiết rằng Người đã luôn luôn nuôi dưỡng ý tưởng trong tâm trí: chắc hẳn là ơn thánh chuẩn bị cho Người làm mẹ đồng trinh cũng đã ảnh hưởng tới việc phát huy bản ngã của mình, và Chúa Thánh Thần không ngừng gợi lên, ngay từ thuở thiếu thời, ước muốn kết hiệp hoàn hảo hơn với Thiên Chúa.

3. Những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện, kể cả ngày hôm nay, trong con tim của biết bao nhiêu thanh niên thiếu nữ, thì tiên vàn Ngài đã được thực hiện trong tâm hồn của Đức Maria. Ngay cả vào thời đại chúng ta, mặc dù bị sao lãng bởi những cám dỗ của một nền văn minh hời hợt và tiêu thụ, nhưng không ít bạn trẻ đã biết đón tiếp lời mời gọi qua tấm gương của Đức Maria và đã dâng hiến tuổi xuân cho Chúa và để phục vụ anh em đồng loại.

Một sự lựa chọn như vậy không phải là từ khước các giá trị nhân bản, nhưng là lựa chọn những giá trị cao lớn hơn. Về điểm này, vị tiền nhiệm của tôi, Đức Phaolô VI, trong tông huấn Marialis Cultus đã nhấn mạnh rằng: nếu ai nhìn tới chứng tá của Phúc âm một cách khách quan, thì “sẽ nhận thấy rằng việc Đức Maria chọn lựa bậc trinh khiết… không phải là một hành vi khép kín đối với những giá trị của bậc sống hôn nhân, nhưng là một sự lựa chọn can đảm, nhằm tận hiến cuộc đời cho tình yêu của Chúa” (số 37).

Tóm lại, việc lựa chọn bậc trinh khiết được thúc đẩy bởi việc gắn bó hoàn toàn với Đức Kitô. Điều này đã xảy ra một cách đặc biệt ở nơi Đức Maria. Dù trước lúc Truyền tin Đức Maria chưa ý thức điều đó, nhưng Chúa Thánh Thần đã gợi lên việc dâng hiến trinh khiết nhằm tới Đức Kitô: Đức Maria giữ mình trinh khiết để có thể đón tiếp Đấng Mêsia Cứu thế với tất cả con người của mình. Như thế sự trinh khiết được khởi đầu từ Đức Maria mang theo chiều kích Kitô, và cũng là chiều kích cốt yếu cho đời sống trinh khiết ở trong Hội thánh: họ tìm thấy một mẫu gương tuyệt diệu nơi Thân mẫu của Đức Kitô. Tuy dù rằng sự trinh khiết của Đức Maria được liên kết với chức làm mẹ Thiên Chúa là một sự kiện độc nhất vô nhị, nhưng nó đã soi sáng và mang lại ý nghĩa cho hết tất cả những cuộc tận hiến trinh khiết.

4.- Trong lịch sử Hội thánh, đã có biết bao thiếu nữ, khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao sang của trái tim thanh khiết của vị Thân mẫu Chúa, họ cảm thấy được phấn khích để đáp lại quảng đại tiếng gọi của Chúa bằng việc ôm ấp lý tưởng trinh khiết! Như tôi đã nhắc tới trong thông điệp Thân mẫu Đấng Cứu thế “Chính sự trinh khiết đó, theo gương người trinh nữ Nazaret, là nguồn mạch của sự phong nhiêu tinh thần đặc biệt: nó là nguồn mạch của chức làm mẹ trong Thánh Thần”(số 43).

Cuộc sống trinh khiết của Đức Maria đã gợi lên trong toàn thể Kitô giáo lòng quý trọng đối với hồng ân trinh khiết và lòng mong ước được thấy gia tăng trong Giáo hội dấu chỉ của chỗ đứng siêu việt dành cho Thiên Chúa và dấu chỉ tiên báo cuộc sống mai hậu.

Chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Chúa vì ngày nay vẫn còn những người quảng đại dâng hiến cuộc đời bằng việc sống trinh khiết để phục vụ Nước Trời.

Đồng thời, đang khi mà tại nhiều vùng gốc Kitô giáo, hiện nay chủ nghĩa khoái lạc và tiêu thụ xem ra đã làm ngăn cản nhiều thanh niên thiếu nữ ôm ấp đời sống tận hiến, chúng ta cần phải nài xin Thiên Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, ban cho một mùa dồi dào ơn thiên triệu tu sĩ. Nhờ thế khuôn mặt của Thân mẫu Đức Kitô, được phản chiếu qua những trinh nữ cố gắng bước theo Thầy chí thánh, sẽ trở thành trước mặt nhân loại dấu hiệu của lòng lân tuất dịu hiền của Thiên Chúa[2].

 

BÀI 30: SỰ KẾT HIỆP TRINH KHIẾT

 GIỮA ĐỨC MARIA VÀ THÁNH GIUSE

Tuy Đức Maria giữ mình đồng trinh nhưng Người đã đính hôn với ông Giuse. Rất có thể là cả hai đều được Chúa Thánh Thần soi sáng để thỏa thuận sống trinh khiết. Nhưng một điều chắc chắn là Chúa đã muốn sự hiện diện của thánh Giuse để cộng tác vào việc thực hiện mầu nhiệm Nhập thể: hài nhi Giêsu cần một người cha để phát triển nhân cách. Tuy không sinh Đức Giêsu, nhưng thánh Giuse được gọi thi hành chức vụ làm cha đối với Người.

1.- Khi giới thiệu Đức Maria là “trinh nữ”, Phúc âm thánh Luca thêm rằng “người đã đính hôn với một người thuộc nhà Đavít tên là Giuse”(Lc 1, 27).

Thoạt tiên, xem ra hai dữ kiện này mâu thuẫn. Tuy nhiên cần ghi nhận rằng trong tiếng Hy lạp, đoạn văn này không nói rằng người nữ đã kết hôn và sống trong bậc vợ chồng, nhưng mà chỉ nói đến việc đính hôn. Khác với các nền văn minh tân tiến, trong phong tục Do thái cổ truyền, việc đính hôn bao gồm một giao ước và thường có tính cách chung quyết: thực vậy, nó dẫn những cặp đính hôn tiến tới hôn nhân, mặc dù hôn nhân chỉ được hoàn tất kể từ lúc chú rể đưa cô dâu về nhà mà thôi.

Vào lúc Truyền tin, Đức Maria ở trong tình trạng đính hôn. Thử hỏi: tại sao Người đã chấp nhận sự đính hôn một khi đã dốc lòng giữ mình trinh khiết suốt đời?

Thánh sử Luca đã nhận thấy sự khó khăn đó, nhưng ông chỉ ghi nhận tình hình mà không đưa ra một lời giải thích nào hết. Sự kiện thánh sử nêu bật quyết tâm sống trinh khiết của Đức Maria nhưng đồng thời cũng trình bày như là vợ của ông Giuse là một dấu chỉ cho thấy cả hai chi tiết này đều đáng tin về khía cạnh lịch sử.

2.- Có thể giả thiết rằng giữa ông Giuse và bà Maria, vào lúc đính hôn, họ đã đồng ý với nhau về cuộc sống trinh khiết. Mặt khác, Chúa Thánh Thần, Đấng đã gợi hứng cho Đức Maria lựa chọn sự trinh khiết để nhằm tới mầu nhiệm Nhập thể và đã muốn cho mầu nhiệm này diễn ra trong khung cảnh một gia đình thích hợp cho sự tăng trưởng của Hài nhi, thì ắt là Ngài cũng có thể gợi nơi ông Giuse lý tưởng trinh khiết.

Sứ thần của Chúa, khi hiện ra với ông Giuse trong giấc mơ, đã nói như sau: “Này, ông Giuse, con vua Đavít, đừng sợ đón bà Maria về làm vợ, bởi vì đứa con mà bà sinh ra là do Thánh Thần” (Mt 1, 20). Như vậy ông Giuse đã nhận được lời xác nhận ơn gọi sống con đường hôn nhân một cách hết sức đặc biệt.

Qua việc hiệp thông trinh khiết với người nữ đã được chọn để sinh hạ Đức Giêsu, Chúa đã gọi ông Giuse hợp tác vào việc thực hiện chương trình cứu chuộc.

Kiểu hôn nhân mà Chúa Thánh Thần hướng dẫn bà Maria và ông Giuse chỉ có thể hiểu được trong toàn bộ kế hoạch cứu độ và trong khung cảnh một linh đạo cao siêu. Việc thực hiện cụ thể mầu nhiệm Nhập thể đòi hỏi một sự sinh hạ trinh khiết để nêu bật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và đồng thời đòi hỏi một gia đình để bảo đảm cho nhân cách của Hài nhi được phát triển điều hòa.

Chính vì phải góp phần vào mầu nhiệm của Ngôi Lời nhập thể mà ông Giuse và bà Maria đã lãnh nhận ơn thánh để họ vừa sống đặc sủng trinh khiết vừa sống hồng ân hôn nhân. Sự thông hiệp tình yêu trinh khiết giữa Đức Maria và ông Giuse, tuy tạo nên một trường hợp hết sức đặc biệt, gắn liền với việc thực hiện mầu nhiệm Nhập thể, nhưng vẫn là một hôn nhân đích thực. (xc. tông huấn Redemptoris Custos, số 7)[3].

Nỗi khó khăn trong việc hình dung mầu nhiệm cao siêu của sự thông hiệp vợ chồng giữa hai ngài đã đưa vài tác giả, ngay từ thế kỷ thứ II, tới chỗ mường tượng ông Giuse đã cao niên và coi ông như là người hộ thủ hơn là chồng của bà Maria.

Tuy nhiên, có lý do để giả thiết rằng lúc đó ông Giuse không phải là một người già, nhưng mà do sự hoàn thiện nội tâm, hoa quả của ơn thánh, ông đã có thể sống với mối tương quan vợ chồng với Đức Maria với tâm tình trinh khiết.

3.- Sự kết hiệp của ông Giuse vào Mầu nhiệm nhập thể cũng bao hàm việc thực hiện chức vụ làm cha đối với Đức Giêsu.

Chức vụ này đã được thiên sứ nhìn nhận khi hiện ra với ông trong giấc mơ, và mời gọi ông đặt tên cho Hài nhi: “bà Maria sẽ sinh một con trai và ông sẽ đặt tên là Giêsu: bởi vì Người sẽ cứu dân khỏi tội lỗi”(Mt 1, 21).

Tuy không có sự sinh ra theo thể lý, nhưng chức vụ của ông Giuse làm cha có thực chất chứ không phải là giả hiệu.

Khi phân biệt người “cha” và “thân sinh”, một tác phẩm cổ điển về sự trinh khiết của Đức Maria – De Margarita (thế kỷ thứ IV) – đã khẳng định rằng “những lời cam kết làm vợ chồng giữa Đức Trinh nữ và ông Giuse đã đáng cho ông được gọi bằng danh hiệu là cha; một người cha mà không sinh con”. Như vậy ông Giuse đã thực hiện chức vụ làm cha đối với Đức Giêsu: ông được sử dụng một quyền hành mà Chúa Cứu chuộc đã tự ý “suy phục” (Lc 2, 51), ông đã đóng góp vào việc giáo dục và truyền đạt nghề làm thợ mộc.

Các Kitô hữu luôn luôn nhìn thấy nơi ông Giuse như là Đấng đã sống thân mật với Đức Maria và Chúa Giêsu, và họ kết luận rằng kể cả khi qua đời ông cũng đã được hưởng được sự hiện diện âu yếm và khích lệ của hai ngài. Từ truyền thống lâu đời đó, nhiều nơi đã phát triển lòng tôn kính Thánh Gia, trong đó thánh Giuse đã được tôn kính như là kẻ hộ thủ của Chúa Cứu thế. Như mọi người đã biết, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã ký thác việc bảo trợ toàn thể Hội thánh cho Người.



[1]  Xem lại bài 17.

[2]  Xem thêm bài 60.

[3] Tông huấn Redemptoris Custos (Kẻ gìn giữ Đấng Cứu thế) , về dung mạo và sứ vụ của thánh Giuse trong đời sống Đức Kitô và Hội thánh, do Đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 15.8.1989, để ghi nhớ 100 năm thông điệp Quamquam pluries của Đức Lêô XIII.

Chia sẻ Bài này:

Related posts

Leave a Comment