CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ
Thứ Bảy, ngày 17/05/2014
PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI
1. KHAI MẠC
(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)
1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần
Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.
ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.
2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
2. TIN MỪNG
(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)
Tin Mừng: Ga 14,7-14
7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” 8 Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”9 Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”?10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con.14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.
3. SUY NIỆM
“Anh em biết Thầy… anh em sẽ biết Cha Thầy” (Ga 14,7).
Như Mẹ: Đức Giêsu đã đến và mặc khải cho chúng ta được biết Thiên Chúa qua lời nói, hành động của Người. Một khi chúng ta tin nhận Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót thì chúng ta cũng tin rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ Thiên Chúa ban cho thế gian để giải thoát chúng ta khỏi nô lệ của tội lỗi.
Với Mẹ: Lạy Chúa Giêsu, xưa kia Chúa đã ban cho các môn đệ được tin và sống đức tin một cách trọn vẹn bằng diễm phúc tử đạo. Xin Chúa cho chúng con can đảm biểu lộ niềm tin của mình vào Chúa bằng việc lắng nghe và thực hành điều Chúa dạy qua đời sống thường ngày.
Nhờ Mẹ: Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con trước những vấp ngã, để chúng con biết tìm về với Chúa là cùng đích của đời mình.
4. LẦN HẠT MÂN CÔI
(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)
5. KẾT THÚC
(hát hoặc đọc)
1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa
ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.
1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.
2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.
3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.
2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.
Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA
BÀI 33: ĐỨC MARIA “BÀ EVA MỚI”
Mở đầu loạt bài chú giải trình thuật Truyền tin, Đức Maria được giới thiệu như là “thiếu nữ Sion mới” (bài 18), tượng trưng cho dân Israel trung thành với giao ước. Để kết thúc loạt bài này, Đức Thánh Cha nhìn Đức Maria như “bà Eva mới”, tượng trưng cho dòng dõi loài người, đón nhận Lời Chúa. Nhờ đức tin và vâng phục, Đức Maria trở thành “bà mẹ của những người sống”.
1.- Khi bình giải biến cố Truyền tin, công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh đặc biệt tới giá trị của sự thỏa thuận của Đức Maria với những lời của thiên sứ. Khác với những trường hợp tương tự được kể lại trong Kinh thánh, lần này thiên sứ rất mong đợi sự thỏa thuận của Đức Maria: “Chúa Cha giàu lòng từ bi muốn rằng sự thỏa thuận của Đấng được định làm mẹ thì đi trước cuộc Nhập thể, bởi vì như thế, cũng như một người nữ đã góp phần vào việc mang lại sự chết, thì một người nữ cũng góp phần vào việc mang lại sự sống” (HT 56).
Hiến chế Anh sáng muôn dân đã nhắc lại sự đối chọi giữa cung cách của bà Eva và của Đức Maria, đã được thánh Irênêo diễn tả như sau: “Cũng như bà kia -nghĩa là bà Evà- đã bị quyến rũ do lời lẽ của một thiên sứ, đến nỗi đã lìa xa Thiên Chúa bởi vì làm lỗi lời của Người, thì bà này -nghĩa là bà Maria- đã tiếp nhận tin mừng do lời lẽ của một thiên thần đến nỗi đã cưu mang Thiên Chúa bởi vì vâng theo lời của Người. Cũng như bà kia đã bị dụ dỗ để bất tuân Thiên Chúa thì bà này đã được khuyến dụ để vâng lời Chúa. Vì thế mà trinh nữ Maria trở thành trạng sư cho bà trinh nữ Eva. Cũng như nhân loại đã bị cái chết đô hộ vì một trinh nữ, thì cũng được giải thoát khỏi cái chết nhờ một trinh nữ; như vậy sự bất tuân của một trinh nữ đã được chấn chỉnh lại nhờ sự tuân phục của một trinh nữ…” (Adversus haereses 5,19.1).
2.- Khi nói lên lời “xin vâng” đối với kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Maria hoàn toàn tự do trước mặt Chúa. Đồng thời Người cảm thấy có trách nhiệm trước mặt nhân loại, bởi vì tương lai của họ lê thuộc vào lời đáp của mình.
Thiên Chúa đã trao vào tay của một thiếu nữ vận mạng của tất cả nhân loại. Tiếng “xin vâng” của Đức Maria được đặt làm tiền đề ngõ hầu có thể thực thi chương trình mà Thiên Chúa vì tình yêu đã dự định cho phần rỗi nhân loại.
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã tóm tắt giá trị quyết liệt cho toàn thể nhân loại nhờ sự thỏa thuận tự do của Đức Maria vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: “Đức Trinh nữ Maria đã hợp tác vào sự cứu độ nhân loại bằng niềm tin tự do và bằng sự vâng phục. Người đã nói lên tiếng “xin vâng” nhân danh toàn thể nhân loại – “locus totius humanae naturae”: nhờ sự vâng phục của mình, Người đã trở thành bà Eva mới, bà mẹ những người sống[1]” (số 511).
3.- Qua thái độ của mình, Đức Maria đã nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về trách nhiệm nặng nề biết đón nhận kế hoạch của Thiên Chúa vào cuộc đời của chúng ta. Khi tuân theo không chút dè dặt vào ý định cứu chuộc của Thiên Chúa được lời của thiên sứ tỏ bày, Đức Maria trở thành mẫu gương cho những kẻ mà Chúa Giêsu đã tuyên bố là có phúc, vì họ “lắng nghe Lời của Chúa và tuân hành” (Lc 11, 28). Khi trả lời một người phụ nữ, giữa đám đông, tán dương bà mẹ Người thật có phúc, Chúa Giêsu tỏ cho thấy đâu là nguyên do đích thực của hạnh phúc của Đức Maria: sự tuân theo ý Chúa đã đưa Người đến chỗ chấp thuận làm mẹ của Thiên Chúa.
Trong thông điệp Thân mẫu Đấng Cứu thế tôi đã nêu bật rằng chức làm mẹ tinh thần, mà Đức Giêsu nói ở đây, tiên vàn nhằm tới Đức Maria. Thực vậy, Đức Maria không phải là người đầu tiên thuộc về số những kẻ lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành đó sao? Vì vậy lời chúc phúc mà Đức Chúa Giêsu đã công bố khi đáp lại lời của một bà vô danh không phải là tiên vàn nhằm tới Đức Maria hay sao? (số 20). Như thế, theo một nghĩa nào đó Đức Maria đã được tuyên bố là người môn sinh đầu tiên của Con mình, và qua tấm gương đó, Người mời gọi tất cả các tín hữu hãy quảng đại đáp ứng ơn Chúa.
4.- Công đồng Vaticanô II còn dừng lại để giải thích sự tận tụy Đức Maria đối với việc phục vụ bản thân và sự nghiệp của Đức Kitô: “Như một nữ tỳ của Chúa, Đức Maria đã dâng hiến toàn thân cho bản thân và công trình của Con mình, đặt mình phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc ở dưới Đức Kitô và cùng với Đức Kitô, hợp với ân sủng của Thiên Chúa toàn năng” (HT 56).
Đối với Đức Maria, sự hiến thân cho bản thân và sự nghiệp của Đức Giêsu có nghĩa là kết hiệp mật thiết với Con mình, góp phần tình mẹ vào sự tăng trưởng nhân bản của Đức Giêsu và hợp tác vào công cuộc cứu chuộc của Người. Khía cạnh cuối cùng này đã được Đức Maria thực ở “dưới Đức Kitô”, nghĩa là trong một vị trí suy phục, hoa trái của ân sủng. Tuy nhiên, nó cũng là một sự cộng tác, bởi vì được thực hiện “cùng với Đức Kitô’ và bao hàm một sự tham dự trực tiếp vào công trình cứu chuộc, kể từ lúc Truyền tin.
Công đồng Vaticanô II nhận định: “Như vậy các Giáo phụ đã có lý khi nói rằng Đức Maria không phải chỉ là một dụng cụ hoàn toàn thụ đông trong tay Chúa, nhưng Người đã cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại bằng đức tin tự do và sự vâng phục. Thực vậy, như thánh Irênêô đã nói, ‘nhờ vâng lời, Người đã trở thành nguyên nhân cứu rỗi cho bà Eva và cho tất cả nhân loại” (HT 56).
Khi được kết nạp vào việc Đức Kitô chiến thắng tội lỗi của nguyên tổ, Đức Maria tỏ ra thực sự là “mẹ của những người sống”. Chức làm mẹ của Người, được chấp thuận tự do bằng việc tuân phục chương trình của Thiên Chúa, trở nên nguồn sự sống cho toàn thể nhân loại.
BÀI 34: MẦU NHIỆM THĂM VIẾNG
KHAI MÀO SỨ MẠNG CỦA ĐẤNG CỨU THẾ
Trong trình thuật Thăm viếng (Lc 1,39-45), thánh Luca không chỉ mô tả một cuộc viếng thăm tình nghĩa. Khi phân tích lối hành văn, ta thấy thánh sử muốn giới thiệu Đức Maria như kẻ mang Tin mừng sự xuất hiện Đấng Mêsia. Đức Maria ra như chuẩn bị những chặng đường truyền giáo của Con mình, Đấng rao giảng Tin mừng và đổ tràn Thánh thần. Ngoài ra, qua lời ca ngợi của bà Êlisabét, chúng ta nhận biết cội nguồn hạnh phúc của Đức Maria là đức tin vào Lời Chúa.
1.- Khi thuật lại cảnh Thăm viếng, thánh Luca cho thấy rằng hồng ân Chúa Nhập thể, sau khi đã tràn ngập Đức Maria, thì cũng mang lại sự cứu rỗi và vui mừng cho nhà bà Elisabet. Đấng Cứu chuộc nhân loại, nằm trong lòng của Mẹ mình, đã đổ tràn Thánh Thần, như vậy đã tỏ mình khi vừa mới đến trần gian.
Khi tả việc lên đường của Đức Maria về miền Giuđêa, thánh sử dùng động từ Hy lạp “anistemi” có nghĩa là “chỗi dậy, di chuyển”. Động từ này đã được Phúc âm dùng để ám chỉ sự sống lại của Chúa Giêsu (Mc 8, 31; 9, 9.31; Lc 24, 7.46) hoặc là những hành động bao hàm một sự thúc đẩy tinh thần (Lc 5, 27.28; 15, 18.20); vì thế, chúng ta có thể giả thiết rằng qua hạn từ này thánh Luca muốn nêu bật sự thúc đẩy mãnh liệt đưa Đức Maria, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mang Chúa Cứu thế đến cho nhân loại.
2.- Ngoài ra, bản văn Phúc âm nói rằng Đức Maria lên đường “vội vàng” (Lc 1, 39). Kể cả sự ghi chú “về miền núi”(Lc 1,39) trong mạch văn của Luca còn muốn nói cái gì hơn là một địa điểm địa lý, bởi vì nó gợi lên sự liên tưởng tới người mang tin mừng được ngôn sứ Isaia diễn tả: “đẹp thay trên miền núi những bước chân của người mang tin mừng loan báo bình an, sứ giả tin mừng cứu rỗi nói với Sion: Thiên Chúa của ngươi hiển trị” (Is 52, 7).
Cũng như thánh Phaolô đã nhận ra sự hoàn tất đoạn văn tiên tri đó nơi việc truyền giảng Phúc âm (Rm 10,15), thì dường như thánh Luca cũng mời gọi chúng ta hãy nhìn nơi Đức Maria như là kẻ “rao giảng tin mừng” tiên phong, phổ biến tin vui, khai trương cho những cuộc hành trình truyền giáo của Con mình.
Sau cùng, mục tiêu chuyến hành trình của Đức Trinh nữ cũng mang ý nghĩa đặc biệt: đó là từ Galilê hướng về Giuđêa, cũng tương tự như con đường truyền giáo của Chúa Giêsu (xc 9, 51).
Thực vậy, với việc thăm viếng bà Êlisabét, Đức Maria đã thực hiện việc khai mào Sứ vụ của Chúa Giêsu. Người đã cộng tác vào công trình cứu chuộc của Con mình ngay từ lúc bắt đầu chức vụ làm mẹ; do đó, Đức Maria trở thành mẫu gương cho những kẻ trong Giáo hội lên đường để mang ánh sáng và niềm vui của Chúa Kitô cho những người mọi nơi mọi thời.
3.- Cuộc gặp gỡ bà Êlisabét mang những tính chất của một biến cố cứu độ hân hoan, vượt quá cảm tình bộc phát của tình nghĩa gia đình. Tại nơi mà sự câm nín của ông Giacaria đã đánh dấu mối nghi nan, thì Đức Maria đã bộc phát niềm vui của đức tin mau mắn: “Khi vào nhà ông Giacaria, Người đã chào bà Êlisabét” (Lc 1, 40).
Thánh Luca thuật lại rằng “khi bà Êlisabét vừa nghe lời chào của bà Maria, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng” (Lc 1, 41). Lời chào của Đức Maria đã gợi lên nơi đứa con của bà Êlisabét sự nhảy mừng: việc Đức Giêsu, nhờ bà Mẹ của mình, vào nhà bà Êlisabét, mang lại cho vị ngôn sứ tương lai niềm hân hoan mà Cựu ước loan báo như là dấu chỉ hiện diện của Đấng Mêsia.
Khi nghe tiếng chào của Đức Maria, niềm vui của thời Mêsia cũng cuốn cả bà Êlisabét, “bà được đầy Chúa Thánh Thần và lớn tiếng thốt lên: ‘Bà đáng chúc tụng hơn mọi người nữ, và hoa trái của lòng bà đáng được chúc tụng’!”(Lc 1, 41-42).
Nhờ ơn trên soi sáng, bà Êlisabét được rằng Đức Maria cao cả hơn bà Raen và bà Giuđitha, những hình ảnh tiên trưng của Người trong Cựu ước[2]. Người được chúc tụng hơn các phụ nữ tại vì hoa trái đang mang trong lòng, đó là Đức Giêsu vị Mêsia.
4.- Sự cao rao của bà Êlisabét, “một cách lớn tiếng”, bày tỏ một niềm hoan hỉ đạo đức, mà kinh “Kính mừng” vẫn còn làm vang lên trên môi của các tín hữu, như là một ca khúc ngợi khen của Hội thánh vì những công trình vĩ đại mà Đấng Tối cao đã thực hiện nơi Thân mẫu của Con mình. Khi ca ngợi Đức Maria là kẻ “được chúc tụng hơn các phụ nữ”, bà Êlisabét đã cho biết rằng lý do hạnh phúc của Đức Maria là vì đã tin: “Phúc thay kẻ đã tin rằng những lời Chúa phán sẽ hoàn tất” (Lc 1, 45). Sự cao cả và niềm vui của Đức Maria bắt nguồn từ chỗ Người là kẻ đã tin[3].
Đứng trước sự cao cả của Đức Maria, bà Êlisabét cũng cảm thấy được niềm vinh dự của mình vì cuộc viếng thăm: “Vì đâu mà mẹ của Chúa tôi đến với tôi?” (Lc 1, 43). Qua những lời “Chúa tôi” bà Êlisabét nhìn nhận rằng Con của bà Maria là Vua, là Đấng Mêsia. Thực vậy, trong Cựu ước, tiếng “Chúa tôi” được sử dụng khi thưa với nhà vua (xc.1V 1, 13-20) hay để nói về Vua-Mêsia (Tv 110, 1). Thiên sứ đã nói về Đức Giêsu như sau: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít, tổ tiên của Người” (Lc 1, 32). Bà Êlisabét “đầy Thánh Thần”, cũng đã ý thức như vậy. Về sau, vinh quang phục sinh của Đức Kitô sẽ cho thấy cần phải hiểu tước vị này theo một nghĩa khác, theo nghĩa siêu việt là “Đức Chúa”[4](xc. Ga 20, 28; Cv 2, 34-36).
Qua lời tán tụng cảm phục, bà Êlisabét mời gọi chúng ta hãy biết trân trọng tất cả những gì mà sự hiện diện của Đức Trinh nữ mang lại cho đời sống của mỗi người tín hữu.
Trong cuộc Thăm viếng, Đức Trinh nữ đã mang lại cho thân mẫu của Gioan Đức Kitô, Đấng đổ tràn Thánh Thần. Vai trò trung gian đó đã được làm nổi bật qua những lời của bà Êlisabét: “Này, khi lời chào của em vừa đến tai tôi, thì con trẻ đã nhảy mừng ở trong bụng tôi” (Lc 1, 44). Sự can thiệp của Đức Maria đã mang lại hồng ân Thánh Thần, ra như là khai mào cho lễ Ngũ tuần, xác nhận một lần nữa rằng sự hợp tác của Đức Maria, được khởi đầu với biến cố Nhập thể, sẽ còn kéo dài suốt công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
[1] Theo sự giải thích của tác giả sách Sáng thế (3,20), tên bà Evà có nghĩa là “mẹ của chúng sinh” (mẹ của những người sống).
[2] Xc. bài 15.
[3] Xc. bài 25.
[4] Trong ngôn ngữ Cựu ước, “Chúa tôi” nhiều khi được dùng để xưng hô với Đức Vua (hoặc: Chúa Thượng). Tuy nhiên, trong Tân ước, các Kitô hữu đã tuyên xưng Đức Kitô là “Chúa” (hoặc Đức Chúa), bởi vì nhìn nhận thiên tính của Người, ngang hàng với Đức Chúa Giavê (Ađônai) trong Cựu ước. xc GLCG số 446-451