CHƯƠNG TRÌNH NGÀN HOA DÂNG MẸ
Thứ Năm, ngày 29/05/2014
PHẦN I. SUY NIỆM MẦU NHIỆM MÂN CÔI
1. KHAI MẠC
(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)
1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần
Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.
ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.
2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
2. TIN MỪNG
(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)
Tin Mừng: Ga 16,16-20
16 “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.”
17 Bấy giờ vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giê-su hỏi nhau: “Người muốn nói gì khi bảo chúng ta: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” và “Thầy đến cùng Chúa Cha”? “18 Vậy các ông nói: “”Ít lâu nữa” nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người nói gì! “19 Đức Giê-su biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông: “Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy”.20 Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.
3. SUY NIỆM
“Nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20).
Như Mẹ: Khoảng cách giữa buồn sầu-vui mừng, tối tăm-ánh sáng, cái chết-sự sống rất xa, nhưng cũng rất thực tế. Nếu chúng ta không qui hướng cuộc đời và mọi biến cố về sự sống đời đời mà Chúa đã hứa ban, chúng ta sẽ dễ lầm mà chọn cho mình hạnh phúc chóng qua trong cuộc sống tạm bợ này.
Với Mẹ: Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay như truyền cho chúng con sức mạnh để dám can đảm đón nhận mọi trái ngang của cuộc sống. Đó cũng là ánh sáng cho chúng con nhìn thấy con đường của niềm hy vọng đằng sau những bất công và tội ác. Đức tin dạy cho chúng con biết nhìn lên Chúa là cùng đích của mọi loài.
Nhờ Mẹ: Xin Mẹ giúp chúng con lắng nghe Lời Chúa và thực hành Lời Chúa như Mẹ đã lắng nghe và thực hành.
4. LẦN HẠT MÂN CÔI
(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)
5. KẾT THÚC
(hát hoặc đọc)
1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa
ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.
1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.
2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.
3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.
2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.
Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ ĐỨC MARIA
BÀI 58: ĐỨC MARIA
ĐIỂN HÌNH VÀ MẪU GƯƠNG CỦA HỘI THÁNH
Mối tương quan giữa Đức Maria với Hội thánh được công đồng Vaticanô II diễn tả bằng những quan niệm khác nhau: “phần tử ưu việt” (xc. bài 57), “Mẹ” (xc. bài 63), “hình ảnh và mẫu gương”. Bài hôm nay giải thích ý nghĩa của từ “điển hình” (hay “hình ảnh”) và mẫu gương. Những bài kế tiếp sẽ khai triển bốn khía cạnh khác nhau của “mẫu gương”.
1.- Hiến chế tín lý về Hội thánh của công đồng Vaticanô II, sau khi đã trình bày Đức Maria như là phần tử “ưu việt và độc nhất vô nhị của Hội thánh” đã tuyên dương Người là “hình ảnh và khuôn mẫu tuyệt vời của đức tin và đức ái”[1] (HT 53).
Các Nghị phụ đã gán cho Đức Maria chức năng “điển hình”, nghĩa là hình ảnh của Hội thánh, lấy từ một từ ngữ của thánh Ambrôsiô. Khi chú giải cảnh Truyền tin thánh Ambrôsiô đã nói như sau: “Quả vậy, Đức Maria đã đính hôn mà còn trinh khiết, bởi vì Người là điển hình của Hội thánh không tì ố nhưng đã đính hôn: Hội thánh trinh khiết đã thụ thai chúng ta bởi Chúa Thánh Thần, Hội thánh trinh khiết đã sinh chúng ta không đau đớn” (In Evangelium secundum Lucam, II,7). Vì thế Đức Maria là hình ảnh của Hội thánh nhờ sự thánh thiện không tì ố, nhờ sự trinh khiết, nhờ đặc tính hôn thê và Mẹ.
Thánh Phaolô đã dùng từ ngữ “điển hình”[2] để ám chỉ một hình ảnh hữu hình của một thực tại thiêng liêng. Thực vậy, thánh Phaolô đã nhìn thấy trong việc dân Israel đi qua Biển Đỏ “điển hình” hay là hình ảnh của phép rửa Kitô giáo; trong bánh manna và nước vọt ra từ tảng đá, một “điển hình” hay là hình ảnh của lương thực và của uống của bí tích Thánh thể (xc. 1Cr 10, 1-11).
Khi định nghĩa Đức Maria là điển hình của Hội thánh, Công đồng mời gọi chúng ta hãy nhìn nhận ở nơi Người hình ảnh hữu hình của một thực tại thiêng liêng là Hội thánh và nhận ra nơi tình mẹ Vô nhiễm, sự loan báo tình mẹ trinh khiết của Hội thánh.
2.- Tuy nhiên cần phải xác định rằng, khác với những hình ảnh hay điển hình trong Cựu ước chỉ mới tiên báo những thực tại của tương lai, còn nơi Đức Maria thì thực tại thiêng liêng đã hiện diện rồi và hiện diện một cách siêu việt.
Việc vượt qua Biển Đỏ, được thuật lại trong sách Xuất hành, là một biến cố giải thoát, chứ chưa phải là phép rửa có khả năng tha tội và ban sức sống mới. Một cách tương tự như vậy, bánh manna, một hồng ân của Thiên Chúa cho dân lữ hành trên sa mạc, chưa có chứa đựng thực tại của bí tích Thánh thể, cũng như nước vọt ra từ tảng đá chưa chứa đựng bửu huyết của Chúa Kitô đổ ra cho muôn người.
Cuộc xuất hành là một kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho dân Người, nhưng chưa phải là cuộc cứu chuộc chung cục, một điều chỉ xảy ra qua mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô. Ngoài ra, khi nói tới phụng tự của đạo Do thái, thánh Phaolô nhắc nhở rằng: “tất cả những điều này chỉ là hình bóng của tương lai; nhưng thực tại là chính Đức Kitô” (Cl 2,17). Lá thư gởi dân Do thái cũng giải thích điều này một cách có hệ thống hơn, khi trình bày phụng tự của Cựu ước như là hình bóng của những thực tại trên trời”(Dt 8,5).
3.- Khi khẳng định rằng Đức Maria là hình ảnh của Hội thánh, Công đồng không nhằm đồng hóa Người với những hình ảnh hay điển hình thuộc về Cựu ước, nhưng là muốn khẳng định rằng nơi Đức Maria thực tại thiêng liêng được loan báo và được tượng trưng thì nay đã thực hiện một cách hoàn toàn.
Thực vậy, Đức Maria là hình ảnh của Hội thánh, không phải xét như là một sự tiên báo bất toàn, nhưng là một sự viên mãn cần phải được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau trong đời sống của Hội thánh. Mối liên hệ đặc biệt giữa hình ảnh và thực tại đặt nền tảng trên chương trình của Thiên Chúa, Đấng đã thiết lập một sự liên kết chặt chẽ giữa Đức Maria với Hội thánh. Chương trình cứu rỗi đã ấn định rằng những sự tiên báo của Cựu ước sẽ được hoàn tất trong Tân ước; chương trình ấy cũng ấn định rằng Đức Maria sống một cách hoàn hảo những gì sẽ được dần dần thực hiện ở trong Hội thánh.
Do đó, sự hoàn thiện mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria đạt được một ý nghĩa chân chính nếu được đọc như là tiên báo cho cuôc sống thần linh ơ trong Hội thánh.
4.-Sau khi đã khẳng định rằng Đức Maria là “điển hình của Hội thánh”, Công đồng thêm rằng Đức Maria là “khuôn mẫu tuyệt vời” của Hội thánh, mẫu gương hoàn thiện cho Giáo hội đi theo và bắt chước.
Thực vậy, Đức Maria là một “khuôn mẫu tuyệt vời” bởi vì sự hoàn thiện của Người vượt lên trên tất cả các phần tử khác của Hội thánh. Công đồng cũng thêm rằng Đức Maria thực hiện chức năng làm khuôn mẫu “về đức tin và đức ái”. Tuy không quên rằng Đức Kitô mới là mẫu gương đệ nhất, Công đồng muốn gợi ý rằng có những tâm tình nội tại khác, họa theo khuôn mẫu của Đức Maria, có thể giúp cho người Kitô hữu thiết lập một mối tương quan chân chính với Chúa Kitô. Thực vậy, khi nhìn lên Đức Maria, người tín hữu học biết cách thông hiệp sâu xa hơn với Chúa Kitô, gắn bó với Người bằng đức tin sống động, đặt hết niềm tin tưởng nơi Người, và yêu mến Người với trót cuộc sống của mình.
Chức năng “điển hình và khuôn mẫu của Hội thánh” được nhắm tới đặc biệt vào chức làm Mẹ Trinh khiết của Đức Maria, và làm sáng tỏ vị trí đặc biệt của Người trong công trình Cứu chuộc. Cơ cấu căn bản này của bản thân Đức Maria được phản ánh ra chức vụ làm mẹ và là đức trinh khiết của Hội thánh[3].
BÀI 59: MẪU GƯƠNG LÀM MẸ CHO HỘI THÁNH
Đức Maria, Mẹ của Đức Giêsu, là gương mẫu cho Hội thánh học biết cách thi hành sứ mạng làm mẹ các tín hữu. Hội thánh làm mẹ vì sinh ra con cái vào đời sống siêu nhiên, nhờ việc truyền giảng Tin mừng, cử hành Bí tích. Hội thánh học hỏi nơi Đức Maria cách thức làm mẹ, nghĩa là nhờ việc lắng nghe và tuân hành Lời Chúa, nhờ lòng bác ái.
1.- Chính nơi chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa mà Công đồng nhận ra nền tảng của một mối tương quan đặc biệt liên kết Đức Maria với Hội thánh. Trong Hiến chế Tín lý về Hội thánh chúng ta đọc thấy như sau: “Đức Trinh nữ rất thánh, nhờ hồng ân và chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa liên kết Người với Con là Đấng Cứu chuộc, và nhờ những ân sủng và chức vụ đặc biệt, cũng được kết hợp rất chặt chẽ với Hội thánh”(số 63). Hiến chế Tín lý về Hội thánh luôn luôn lặp lại tiền đề này khi soi sáng những chức vụ “điển hình” và “mẫu gương”, mà Đức Trinh nữ thực hiện đối với Nhiệm thể Chúa Kitô: “Thực vậy, trong mầu nhiệm Hội thánh, kẻ cũng đáng được gọi là mẹ và trinh nữ, thì Đức Trinh nữ Maria đã đi tiên phong, đã trưng ra một mẫu gương vừa là trinh nữ vừa là mẹ một cách siêu việt và độc nhất vô nhị” (ibid.).
Chức làm mẹ của Đức Maria đã được định nghĩa như là “siêu việt và độc nhất vô nhị”, bởi vì nó là một sự kiện duy nhất và độc đáo: thực vậy Đức Maria, trước khi thực hiện chức vụ làm mẹ đối với loài người, thì đã là Mẹ của Con Một Thiên Chúa làm người. Còn Hội thánh là mẹ xét vì đã sinh Đức Kitô một cách thiêng liêng ở nơi các tín hữu, và do đó thực hiện chức làm mẹ đối với các chi thể của Nhiệm thể.
Vì thế đối với Hội thánh, Đức Trinh nữ trở thành một khuôn mẫu cao hơn, chính bởi vì tính cách duy nhất của đặc ân làm Mẹ Chúa Trời.
2.- Hiến chế tín lý về Hội thánh, khi tìm hiểu thêm chức làm mẹ của Đức Maria, còn nhắc nhớ rằng chức làm mẹ còn được thực hiện qua những tâm tình nội tại của linh hồn: “Nhờ lòng tin và sự vâng phục, Đức Maria đã sinh ra Con của Chúa Cha dưới đất này, tuy không biết tới người nam, nhưng dưới bóng rợp của Chúa Thánh Thần, giống như bà Evà mới, khi tin không phải là vào con rắn cũ nhưng là vào thiên sứ của Chúa, với một đức tin không hề nao núng vì nghi nan” (HT 63).
Qua những lời vừa trích, hẳn là đức tin và sự suy phục của Đức Maria vào lúc Truyền tin trở thành những nhân đức để cho Hội thánh bắt chước và, một cách nào đó, đã khởi sự cho chặng đường làm mẹ trong việc phục vụ những người được gọi lãnh ơn cứu chuộc.
Chức làm Mẹ Thiên Chúa không thể tách ra khỏi chiều kích phổ quát, đã được nằm trong chương trình của Thiên Chúa; Công đồng đã không ngần ngại nhìn nhận như sau: “Đức Maria đã sinh hạ một người Con, mà Thiên Chúa đã đặt làm trưởng tử của vô vàn anh em (xc. Rm 8, 29), nghĩa là của những tín hữu mà Đức Maria đã cộng tác vào việc sinh đẻ và huấn luyện với tình mẫu tử” (HT 63).
3.- Hội thánh trở thành bà mẹ khi nhận lấy Đức Maria làm khuôn mẫu. Về điểm này Công đồng khẳng định như sau: “Hội thánh, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện huyền diệu của Đức Maria, khi bắt chước lòng yêu mến và khi trung thành thi hành ý muốn của Chúa Cha, thì cũng trở thành Mẹ, nhờ Lời của Chúa được đón nhân một cách trung tín. Thực vậy, nhờ lời giảng và bí tích Rửa tội, Hội thánh đã sinh vào đời sống mới và bất tử những người con được thụ thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần và sinh bởi Thiên Chúa” (HT 64).
Khi phân tích việc mô tả chức vụ làm mẹ của Hội thánh, chúng ta có thể ghi nhận rằng, sự sinh trưởng của người Kitô hữu được gắn bó một cách nào đó với sự sinh trưởng của Chúa Giêsu, tựa như là một sự phản chiếu: các Kitô hữu “được thụ thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần” và việc sinh trưởng của họ, hoa quả của lời giảng và của bí tích Rửa tội, cũng giống như sự sinh trưởng của Chúa Cứu thế.
Ngoài ra, Hội thánh, khi chiêm ngưỡng Đức Maria, thì cũng bắt chước lòng yêu mến của Người, việc trung tín đón nhận Lời của Chúa và sự ngoan ngoãn thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế khi dõi theo gương mẫu của Đức Maria, Hội thánh thực hiện một chức vụ làm mẹ thiêng liêng cách phong phú.
4.- Chức vụ làm mẹ của Hội thánh không làm cho chức vụ làm mẹ của Đức Maria trở thành thừa thãi. Đức Maria tiếp tục thi hành chức vụ làm mẹ trên đời sống của các Kitô hữu, và đem lại cho Hội thánh một khuôn mặt từ mẫu. Dưới ánh sáng của Đức Maria, chức vụ làm mẹ của Cộng đoàn Hội thánh được mời gọi xuất hiện dưới một dạng thức cụ thể hơn, – chứ không phải là mông lung – và thân thương hơn đối với từng con người đã được Đức Kitô cứu chuộc.
Khi tỏ ra là Mẹ của hết mọi tín hữu, Đức Maria gợi lên nơi họ những mối tương quan huynh đệ thiêng liêng và đối thoại không ngừng. Kinh nghiệm đức tin hằng ngày, ở mọi thời đại và mọi nơi, cho thấy sự cần thiết ở nơi nhiều người muốn ký thác cho Đức Maria những ưu tư của cuộc sống thường nhật, và tin tưởng cởi mở cõi lòng để xin Đức Mẹ cầu bầu cho họ nhận được sự che chở và trấn an.
Những lời cầu khẩn dâng lên Đức Maria từ phía những con người thuộc hết mọi thời đại, những hình thức đa dạng biểu lộ lòng tôn kính Đức Maria, những cuộc hành hương tiến vào các thánh địa nhắc nhớ những kỳ công mà Thiên Chúa Cha đã thực hiện nhờ Thân mẫu của Con Người: tất cả những điều đó chứng tỏ ảnh hưởng diệu kỳ mà Đức Maria đã thực hiện trong đời sống của Hội thánh. Lòng hiếu thảo của Dân Chúa đối với Đức Maria chứng tỏ cho thấy nhu cầu muốn nối kết những tương quan thân tình với Mẹ trên trời.
Đồng thời chức làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria nâng đỡ và tăng cường việc thực hiện chức làm mẹ của Hội thánh một cách cụ thể.
Hai người mẹ: Hội thánh và Đức Maria, đều quan trọng đối với đời sống Kitô hữu. Có thể nói được rằng một bên thì thi hành chức vụ làm mẹ một cách khách quan hơn, bên kia thì nội tâm hơn.
Hội thánh trở thành mẹ bằng việc rao giảng Lời Chúa, bằng việc cử hành các bí tích, cách riêng là bằng bí tích Rửa tội, bằng việc cử hành Thánh thể và việc tha thứ tội lỗi.
Chức làm mẹ của Đức Maria được diễn tả trong hết mọi lãnh vực của việc thông ban ơn thánh, cách riêng trong bối cảnh của những mối tương quan liên-bản-vị.
Đó là hai chức làm mẹ không thể tách rời nhau được: thực vậy, cả hai đều bày tỏ cũng một tình thương của Thiên Chúa muốn thông đạt cho loài người.
BÀI 60: MẪU GƯƠNG TRINH KHIẾT CHO HỘI THÁNH
Đức Maria là gương mẫu cho Hội thánh về đức trinh khiết theo nghĩa là cẩn thủ đức tin vẹn toàn. Ngoài ra Đức Maria còn là gương mẫu cho việc thực hành đức khiết tịnh tùy theo bậc sống của mỗi người: độc thân, hôn nhân, tận hiến.
1.- Hội thánh là Mẹ và Trinh nữ.
Sau khi đã khẳng định Hội thánh là mẹ theo gương Đức Maria, Công đồng gán cho Hội thánh tước hiệu là trinh nữ và giải thích ý nghĩa như sau: “Hội thánh cũng là người trinh nữ đã giữ gìn toàn vẹn và tinh tuyền lòng trung nghĩa đã hiến cho Phu quân; noi gương Mẹ của Chúa mình, nhờ thần lực của Chúa Thánh Thần, Hội thánh bảo tồn trinh bạch đức tin được toàn vẹn, đức cậy được bền vững và đức mến được chân thành” (HT 64).
Do đó, Đức Maria cũng là gương mẫu cho Hội thánh về đức trinh khiết. Về điểm này, cần phải minh xác rằng đức trinh khiết không thuộc về Hội thánh theo nghĩa chặt bởi vì nó không tượng trưng cho bậc sống của đại đa số các tín hữu. Thực vậy, do chương trình Quan phòng của Thiên Chúa, con đường hôn nhân là điều kiện phổ thông hơn cả, và có thể nói là chung cho tất cả những người được kêu gọi vào đức tin. Hồng ân trinh khiết được dành riêng cho một số tín hữu được kêu gọi đảm nhận một sứ vụ đặc biệt giữa lòng Hội thánh.
Tuy vậy, khi trưng dẫn đạo lý của thánh Augustinô, Công đồng nhấn mạnh rằng Hội thánh là trinh nữ theo một nghĩa thiêng liêng là sự toàn vẹn của đức tin, đức cậy và đức mến. Do đó, Hội thánh không phải là trinh nữ trong thân xác của các phần tử của mình, nhưng là trinh khiết trong tinh thần, nghĩa là “đức tin toàn vẹn, đức cậy bền vững, đức mến chân thành” (In evangelium Ioannis, Tractatus 13,12).
Vì thế, Hiến chế tín lý về Hội thánh đã vội vàng nhắc nhở rằng, đức trinh khiết của Đức Maria, mẫu gương cho Hội thánh, bao hàm cả chiều kích thể lý, nhờ đó Đức Maria đã thụ thai Đức Giêsu cách trinh khiết do quyền năng của Chúa Thánh Thần, không do sự can thiệp của người nam.
Đức Maria vừa trinh khiết về thân xác vừa trinh khiết về tâm hồn, do ý định muốn sống thân mât với Thiên Chúa mà Người đã bộc lộ vào lúc Truyền tin. Do đó Đấng được kêu cầu như là “Trinh nữ giữa các trinh nữ” trở thành một gương mẫu cao vời cho sự trong trắng và tận hiến cho Chúa. Cách riêng Đức Maria là mẫu gương tuyệt vời cho các trinh nữ Kitô hữu và cho tất cả những ai đã tận hiến cho Chúa cách tuyệt đối qua những hình thức khác nhau của đời sống tận hiến. Do đó, sau khi đã thực hiện một vai trò quan trọng trong công trình cứu chuộc, Đức Trinh khiết của Đức Maria vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng tới đời sống của Hội thánh.
3.- Chúng ta đừng nên quên rằng khuôn mẫu đệ nhất và cao vời của hết mọi đời khiết tịnh[4] là chính Đức Kitô. Tuy nhiên, Đức Maria là một mẫu gương đặc biệt cho đức khiết tịnh sống vì yêu mến Chúa Giêsu.
Đức Maria khuyến khích tất cả các Kitô hữu hãy sống đức khiết tịnh theo bậc của mình, và hãy tín thác vào Thiên Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau của cuôc sống. Đấng đã từng là Đền thờ của Chúa Thánh Thần sẽ giúp cho các tín hữu khám phá ra thân xác của mình như là Đền thờ của Chúa (xc 1Cr 6, 19) và biết tôn trọng vẻ cao quý và thánh thiện của thân xác.
Các thanh thiếu niên nhìn lên Đức Trinh nữ Maria để đi tìm một tình yêu chân chính và kêu cầu sự cứu giúp của Mẹ để trung thành trong đức thanh tịnh.
Đức Maria nhắc nhớ cho các đôi vợ chồng những giá trị căn bản cho hôn nhân giúp cho họ vượt lên cơn cám dỗ thất vọng nản chí, và vượt lên những đam mê muốn khống chế con tim của họ. Việc Đức Maria tận hiến trót đời cho Thiên Chúa trở nên một động lực thôi thúc họ sống trong tình chung thủy, và không bao giờ lùi bước trước những khó khăn đe dọa sự thông hiệp vợ chồng.
4.- Công đồng đã khuyến khích các tín hữu hãy nhìn lên Đức Maria ngõ hầu bắt chước một trinh bạch đức tin toàn vẹn, đức cậy và đức mến[5]. Bảo tồn đức tin tinh tuyền là một cố gắng của Hội thánh, được kêu gọi phải luôn luôn canh chừng, cho dù phải trả giá bằng những hy sinh và chiến đấu. Thực vậy, đức tin của Hội thánh bị đe dọa không những bởi những kẻ khước từ sứ điệp Phúc âm, mà còn bởi những người chỉ chấp nhận một phần của chân lý mạc khải và khước từ không muốn chia sẻ hoàn toàn tất cả gia sản đức tin của Hiền thê Đức Kitô.
Cơn cám dỗ này đã xuất hiện ngay từ thuở khai nguyên của Hội thánh và tiếp tục hiện diện trong cuộc sống của Hội thánh, xúi giục họ chỉ chấp nhận một phần của mặc khải, hoặc là giải thích Lời Chúa theo một kiểu cách hạn hẹp và chủ quan, phù hợp với tâm trạng của thời đại hay với những ước vọng tư riêng. Vì đã gắn bó hoàn toàn với Lời của Chúa, Đức Maria trở thành một mẫu gương đối với Giáo hội về đức tin “trinh khiết vẹn toàn”, đón nhận tất cả chân lý mạc khải với tâm tình ngoan ngoãn và bền vững. Nhờ lời chuyển cầu liên lỉ, Đức Maria xin cho Hội thánh được ánh sáng của đức cậy và ngọn lửa của đức ái, những nhân đức mà Người đã để lại một tấm gương vô bì khi còn sống tại dương thế.
[1] “eius in fide et caritate typus et exemplar spectissimum”
[2] Typus: “điển hình”, cũng được dịch là “tiên trưng”.
[3] Hai đề tài này sẽ được khai triển trong hai bài 59 và 60.
[4] Nên phân biệt đức khiết tịnh (castitas) buộc hết mọi người tùy theo bậc sống, và đức trinh khiết (virginitas), một đặc sủng được ban cho một ít người.
[5] “virginaliter servat integram fidem, solidam spem, sinceram caritatem”