PHẦN 3: BÀI ĐỌC (dùng trong tháng 10 hoặc tháng khác)
BÀI ĐỌC: NGÀY 01 THÁNG 10
Kinh Mân Côi là hương hoa tuyệt diệu Thánh Đa Minh, trối lại cho Dòng Thuyết Giáo. Các hiếu tử của Thánh Phụ đã luôn luôn làm cho di sản vô cùng thiêng thánh đó ngày một tăng trưởng.\
Để cổ súy việc tôn sùng Mẹ Maria, một Linh mục dòng này đã biên soạn một tập sách nhỏ trình bày 15 mầu nhiệm Chuỗi MÂN CÔI để độc giả suy niệm đặc biệt trong Tháng Mười. Việc suy gẫm trong lúc lần hạt đã đem lại nhiều thành tích tốt đẹp.
Giáo quyền nước Tây Ban Nha hưởng ứng và phổ biến nhanh mạnh khắp nước việc đạo đức đầy sáng tạo và linh ứng đó của vị tu sĩ nhà.
Đức Piô IX tăng cường sự ủng hộ bằng nhiều ân xá ban cho những giáo dân tích cực tham gia việc tôn sùng Mẹ Maria bằng Kinh Mân Côi trong Tháng Mười.
Đức Lêô XIII phổ cập việc đạo đức này khắp thế giới:
1- Bằng nhiều thông điệp đề cao việc tôn sùng Kinh Mân Côi.
2- Bằng sắc lệnh dạy giáo dân lần hạt MÂN CÔI để ca ngợi, cảm mến và cầu xin với Mẹ Chúa Trời trong Tháng Mười.
3- Bằng nhiều ân xá và đại xá đặc biệt ban cho những ai sùng kính Kinh Mân Côi.
Có thể nói Đức Trinh Nữ đã long trọng và ân cần mặc nhiên minh nhận Tháng Mười – Tháng MÂN CÔI qua 6 lần xuất hiện ở Fatima năm 1917, mà cao điểm là ngày 13 tháng 10.
Sự tán đồng của Mẹ được minh họa hết sức ngoạn mục và nhấn mạnh đậm nét bằng những phép lạ vô tiền khoáng hậu.
Trong lần xuất hiện thứ 3, Đức Mẹ dạy đọc thêm khi lần hạt kinh “Lạy Chúa Giêsu xin tha tội cho chúng con…”
Trong lần xuất hiện Tháng Mười, Đức Mẹ đã phán: “Ta là Đức Bà MÂN CÔI và ban mệnh lệnh lần hạt mỗi ngày”.
Tháng Mười đương nhiên thành tháng MÂN CÔI của Mẹ Maria.
Giai Thoại
Đức Maria tìm thấy trọn niềm hoan lạc trong tràng hạt MÂN CÔI.
Thánh Đa Minh (Dominique De Guzman, 1170-1221) truyền giáo cho ly phái Anbigioa (Albigeois, Albigense), nhưng người thấy vẫn là
công dã tràng. Người chạy đến cùng Đức Trinh Nữ, quyết van nài Mẹ nhận lời mới thôi.
Từ Tulu (Toulouse) người vào tận rừng sâu hẻo lánh, lưu lại đó 3 ngày 3 đêm để ăn chay cầu nguyện không ngừng. Khi thánh nhân xuất thần, Mẹ Thiên Chúa hiện ra huy hoàng tuyệt mỹ, có 3 nữ hoàng tháp tùng. Và mỗi nữ hoàng lại có 50 trinh nữ theo hầu hạ phục dịch.
Nữ hoàng thứ nhất, cũng như đoàn tùy tùng, mặc y phục trắng. Nữ hoàng thứ hai y phục đỏ. Nữ hoàng thứ ba bận một áo dệt bằng vàng sáng chói hơn hết. Đức Trinh Nữ phán: “50 trinh nữ tùy tùng mỗi nữ hoàng là 50 Kinh Kính Mừng của mỗi Tràng Hạt; màu trắng nhắc lại các mầu nhiệm vui, màu đỏ các mầu nhiệm thương, và màu vàng các mầu nhiệm mừng”.
“Các mầu nhiệm Nhập thể, Giáng sinh, Đời sống và Khổ nạn của Con Mẹ, cũng như các mầu nhiệm Sống lại và Lên trời đều được chứa đựng và như khéo léo lồng vào trong Kinh Kính Mừng và Kinh Lạy Cha.
Đó chính là Tràng Chuỗi MÂN CÔI nghĩa là Triều thiên trong đó Mẹ tìm thấy trọn vẹn niềm hoan lạc.
“Con hãy truyền bá khắp nơi Kinh ấy, và các người lạc giáo sẽ trở lại, các tín hữu sẽ vững tin và sẽ đến diễm phúc muôn đời”.
Được phấn khởi, Thánh Đa Minh vội lui về Tulu, đi ngay vào nhà thờ. Theo lời truyền khẩu, khi đó chuông tự động vang lên inh ỏi. Nhân dân bỡ ngỡ nghe chuông đánh vào giờ khác thường, ồ ạt kéo nhau đến nhà thờ.
Thánh Đa Minh lên diễn đàn, nói đến phép công thẳng của Thiên Chúa ngày phán xét. Để tránh sự chí công đó, chỉ có phương thế chắc chắn là cầu khẩn với Mẹ nhân từ.
Thánh nhân giải thích Kinh Mân Khôi và đọc to. Mọi người hưởng ứng, lần hạt Mân Khôi.
Hiệu năng của việc tôn sùng này thật lạ lùng: trên một trăm nghìn người lạc giáo quy chánh, vô số tội nhân trở về trong một thời gian ngắn.
Chú Thích:
Thánh Đa Minh tức Thánh Domingo Guz-manu, hay Dominico.
Chúng tôi đề nghị dịch âm Domingo hay Đỗ Minh hơn là Đa Minh vì những lý do:
* Đỗ Minh gần với Domingo.
* Đỗ Minh nghĩa là đạt, là đặng, là được. Ít có ai đạt tới Chúa như Thánh Đỗ Minh. Nguyên La Ngữ, Dominico là thuộc về Chúa.
* Đỗ Minh lại gần gũi với văn hóa Việt Nam hơn là Đa Minh.
Vậy Đỗ Minh đã có ý nghĩa cao sâu: “Đạt tới chính Chúa là Nguồn sáng thật”, lại hợp với Việt Nam hơn.
Lời Nguyện
Lạy Mẹ yêu dấu, thế là chúng con có hai tháng Mẹ trong một năm: Hai tháng vô vàn quý giá đối với con cái Mẹ. Trước hai tháng đó, thời gian như ngưng đọng đợi chờ của các con hiếu thảo Mẹ.
Bây giờ, Tháng Mẹ về, lòng chúng con tràn ngập yêu mến, yêu mến Mẹ từng giây, từng phút, yêu mến Mẹ trong ý nghĩ, trong lời nói và trong việc làm.
Lòng trìu mến đó quyết thể hiện bằng:
* Mỗi giây phút tận hiến cho Mẹ tâm hồn và thân xác.
* Hằng ngày dâng Thánh Lễ và Rước Lễ sốt sắng hơn.
* Hằng tuần dự các giờ Thánh và hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
* Mỗi 3 phút kết hợp với Chúa như Thánh Nữ Têrêxa.
* Hằng băn khoăn lo lắng cho phần rỗi tha nhân.
* Và bất cứ lúc nào Ave Maria, con dâng lời chào Mẹ.
* Tha thiết xin Mẹ MÂN CÔI cho chúng con thể hiện quyết tâm sắt son đó.
Nữ Vương Truyền Phép Rất Thánh Mân Côi. Cầu cho chúng con.
BÀI ĐỌC: NGÀY 02 THÁNG 10
Kinh Kính Mừng Maria, việc tôn kính Mẹ hàng đầu
Thánh Anphongsô luôn luôn là vị Tiến sĩ cầu nguyện và là vị Tiến sĩ “Những Vinh Hiển Đức Mẹ MARIA”, đã đặt Kinh Kính Mừng vào hàng đầu trong 10 việc tôn kính Đức Mẹ.
Lời vàng ngọc của thánh nhân: “Ôi lời chào mừng của Thiên thần đẹp lòng Đức Trinh Nữ biết bao!” khi nghe lời ấy, cơ hồ như Mẹ cảm nhận lại niềm vui lúc Thiên sứ Gabriel báo tin Mẹ sắp làm Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta hãy vui mừng dâng nỗi hoan lạc đó cho Mẹ bằng cách thường xuyên đọc Kinh Ave Maria (Kinh Kính Mừng).
Tác giả Tôma a Kempis khuyên: “Chúng ta hãy năng ngỏ với Mẹ Maria lời chào của Thiên Thần, vì Mẹ rất thích thú khi nghe lời ấy”.
Chính Mẹ đã tâm sự với thánh Mechtilda: “Trong tất cả mọi lời chào kính, lời chào kính thiết thân với lòng Mẹ hơn cả là Kinh Kính Mừng.”
Ai chào Mẹ sẽ được Mẹ chào lại. Ngày kia, thánh Bênađô nghe rõ ràng từ một tượng Mẹ: “Bênađô, Mẹ chào con” mà lời chào của Đức Trinh Nữ là một ân sủng Mẹ ban để đáp lễ. Thánh Bonaventura nói: “Mẹ hoan hỉ chào ta, nếu ta sốt sắng chào Mẹ bằng Kinh Kính Mừng.”
Rítta Lôrenxô thêm: “Nếu ai trình diện Đức Trinh Nữ với Kinh Kính Mừng, lẽ nào Mẹ lại không ban ơn cho người ấy ư? Chính Mẹ đã hứa với thánh Gertrude là Mẹ sẽ ban trong giờ lâm chung bao nhiêu điều giúp đỡ bằng bấy nhiêu lần đọc Kinh Kính Mừng.
Thánh Alanh Rốt (Alain de la Roche) quả quyết: Khi đọc Kinh Kính Mừng cả thiên đàng nhảy mừng hoan lạc, hỏa ngục run rẩy và ma quỷ chạy trốn.
Ông Tôma a Kempis cũng minh xác, vì chính ông kinh nghiệm: Ngày kia ma quỷ hiện ra, ông liền đuổi nó chạy trốn với Kinh Ave Maria.
Thánh Tiến sĩ của Đức Trinh Nữ khuyên ta đọc Kinh Kính Mừng trong 6 trường hợp sau đây:
1- Đọc 3 Kinh Kính Mừng ban sáng và ban tối.
2- Đọc Kinh Nhật Một ngày 3 lần (Kinh Truyền Tin).
3- Đọc Kinh Kính Mừng khi nghe điểm giờ.
4- Đọc Kinh Kính Mừng khi ra khỏi nhà và khi về.
5- Đọc Kinh Kính Mừng khi thấy tượng Đức Mẹ.
6- Đọc Kinh Kính Mừng trước và sau khi làm một việc gì.
Giai Thoại
Một đại úy bay nổi qua đường
Khi chúng ta cầu nguyện với Mẹ Maria là Đại Hiền Mẫu, không những Mẹ giúp ra nên thánh hoặc hối cải, mà còn tránh cho ta những nguy hiểm làm ta tái phạm. Câu chuyện lý thú sau đây minh chứng:
Trong tác phẩm “Người Giáo Hữu Thông Thái”, linh mục Xenhơri (Segneri) kể:
Ở La Mã có một thanh niên, đầy tội lỗi trắng trợn và nô lệ những tập quán xấu xa, ngày kia, đến xin xưng tội với cha Duchi (Nicolas Zucchi).
Ngài tiếp chàng với lòng tự ái, và cảm thông thảm trạng của chàng. Ngài quyết chắc lòng tôn sùng Đức Mẹ có thể cứu chàng khỏi tật xấu quái ác ấy.
Bởi vậy, ngài ra việc đền tội cho đến lần xưng tội kế tiếp là: Mỗi ngày đọc một Kinh Kính Mừng khi thức dậy, trước khi ngủ và dâng con
mắt, tay chân và toàn thân cho Mẹ để xin Mẹ giữ gìn như là sở hữu của Mẹ, cuối cùng là hôn đất 3 lần.
Hối nhân làm đầy đủ việc đền tội, lúc đầu không thấy hiệu quả lắm. Nhưng cha Duchi buộc chàng không bao giờ được bỏ, khuyên chàng can đảm và tin mạnh vào sự che chở của Đức Trinh Nữ.
Trong thời gian kế tiếp, chàng với một số bạn hữu cùng rời La Mã chu du khắp thiên hạ.
Khi về, chàng đến trình diện cha giải tội. Ngài sung sướng và sửng sốt thấy chàng hoàn toàn thay đổi cùng lành hẳn những tật xấu.
Người hỏi: “Con làm thế nào mà được Chúa cho thay đổi lạ lùng như vậy”.
Chàng thưa: “Chính nhờ Đức Trinh Nữ mà con được ơn ấy. Mẹ thưởng con đã đọc Kinh Ave hôm sớm như cha đã dạy”.
Thừa thắng xông lên, cha Duchi lên tòa giảng, trình bày sự linh nghiệm của kinh “Tấu Lạy Bà” hôm sớm ấy.
Trong số thính giả có một đại úy, đã lâu, sống lộn xộn. Viên sĩ quan liền đem ra áp dụng, quyết bứt dây ràng buộc đương sự trong nô lệ ma quỷ. Nhờ việc đạo đức nhỏ mọn ấy, viên sĩ quan áp đảo được mối đam mê ô nhục của mình và đổi đời.
Sau nửa năm, anh chàng, quá ỷ lại vào sức mình, đã điên cuồng nghĩ: đến xem người đồng phạm cũ có hối cải không…
Nhưng khi đến nhà dâm phụ tức là liều mình có thể tái phạm, chàng cảm thấy một sức vô hình bắt và đưa chàng qua cuối đường bên kia, rồi để chàng trước nhà mình.
Thế là chàng hiểu rõ Đức Trinh Nữ đã rứt chàng ra khỏi sự hư mất.
Lời Nguyện
Mẹ ôi: uy lực vô song của Kinh Kính Mừng làm chúng con sung sướng và phấn khởi! Xin Mẹ cho toàn thể nhân loại, khoảng 7 tỷ người hiện nay, ai cũng đọc Kinh Kính Mừng. Ai cũng đọc kinh toàn năng, toàn lực đó thì không mấy chốc thế gian biến thành Thiên đàng.
BÀI ĐỌC: NGÀY 03 THÁNG 10
Ý nghĩa Kinh Kính Mừng: Đọc Kinh Kính Mừng là ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa
Khi chúng ta đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta ca tụng tình yêu vô cùng của Thiên Chúa trong công cuộc Nhập Thể, Cứu Chuộc và Thánh Thể Chúa Kitô. Nói chung, khi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta không ca ngợi một thụ tạo (hiểu theo chúng ta) mà chúng ta ca ngợi tình yêu vô biên của Thiên Chúa, khi chính Ngôi Hai đã xuống thế làm người trong lòng Đồng Trinh Mẹ Maria. Sự Ngôi Hai Nhập Thể không phải là đem sự sống, tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại qua sự Phục Sinh của Chúa Kitô sao?
– Mỗi Kinh Kính Mừng là một lời khen ngợi, chúc tụng, đền tạ tình yêu Thiên Chúa.
– Mỗi Kinh Kính Mừng là môt lời ngợi khen, tôn vinh, chúc tụng Thiên Chúa, cùng đền tạ tình yêu Thiên Chúa, đã ban cho loài người trong công cuộc Nhập Thể, Cứu Chuộc của Thiên Chúa Ngôi Hai trong cung lòng Mẹ Maria. Ngợi khen, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa và tình yêu Người đã thể hiện nơi Ngôi Hai trong cung lòng Đồng Trinh Mẹ Maria, đền tạ tình yêu Thiên Chúa trong sự nhận biết Thiên Chúa yêu dấu loài người trong Ngôi Hai. Ý nghĩa này phù hợp với sự tỏ Trái Tim Tình Yêu của Chúa cho nhân loại, nghĩa là nhận biết Thiên Chúa yêu chúng ta vô cùng trong Con Cực Thánh của Người là chúng ta đã đền tạ tình Chúa yêu thương chúng ta. (Sách Mầu nhiệm Maria hay Mầu nhiệm MÂN CÔI trang 59–60).
Giai Thoại
Con khỉ rình bóp cổ chủ nhà
Trong niên sử dòng Capucin của Boverio quyển I, có thuật tích một luật sư nổi tiếng ở Venise.
Để làm giàu, đương sự dùng đủ mánh lới gian lận và bất công. Do đó chàng sống trong tình trạng tội lỗi thật thê thảm. Có lẽ không còn gì là tốt đẹp nơi chàng nữa, ngoài thói quen hằng ngày đọc một Kinh Kính Mừng kính Đức Trinh Nữ.
Tuy nhiên nhờ chút đạo đức nghèo nàn đó, anh thoát được cõi trầm luân.
Vị trạng sư này được cái may mắn là kết thân với linh mục Matthêu Bosso.
Đương sự hết lời năn nỉ người đến dùng bữa. Mời mãi, ngày kia, người cũng chiều lòng. Khi người đến nhà, vị luật sư này khoe.
– Đây, con muốn chỉ cho cha một sự lạ, cha chưa bao giờ thấy. Con có một con khỉ hay tuyệt. Nó giúp con như một nghĩa bộc: nào lau rửa chén bát, nào dọn bàn ăn và mở cửa ngõ cho con.
– Coi chừng, linh mục đáp, không phải là một con khỉ, mà là một cái gì khác hơn nữa, gọi nó đến coi nào.
Người ta gọi khỉ, khỉ vẫn làm lơ. Đổ xô đi tìm khắp, khỉ trốn kỹ. Rốt cùng người ta thấy nó núp dưới một cái giường để trong phòng nhà ngoài. Kêu nó mãi, nó không chịu ra. Nhà tu hành đề nghị:
– À thế, chúng ta cùng đến xem.
Tới nơi, linh mục thét to: “Quỷ hỏa ngục, hãy ra khỏi chỗ đó và nhân danh Thiên Chúa, ta truyền cho mi phải nói mi là ai?”.
Bấy giờ con khỉ khai nó là quỷ và ở trong nhà này, chưa ngày nào tội nhân quên đọc cái kinh ông có thói quen đọc để kính Đức Trinh Nữ, vì Thiên Chúa đã cho phép hắn bóp cổ ông ta ngay lần đầu tiên, khi ông quên đọc.
Nghe vậy, ông trạng sư khốn khổ quỳ xuống chân người đầy tớ Chúa để van xin người cứu giúp.
Sau khi đã trấn tĩnh đương sự, linh mục truyền cho con khỉ ra khỏi nhà và đừng làm gì thiệt hại gia chủ. Người thêm: “Điều ta cho mầy được làm là khoét một lỗ trong vách để đánh dấu việc mầy đi khỏi đây”.
Cha vừa dứt lời, một tiếng ào ào vang lên, và người ta thấy một lỗ hổng nơi vách.
Vôi hay đá, thứ gì bít cũng vô hiệu. Chúa muốn cho nó làm chứng một sự lạ cho đến ngày cha Bosso khuyên trám lỗ bằng một bảng cẩm thạch có chạm hình Thiên thần.
Ông trạng nhà ta, từ đó đổi đời, sống đời thánh thiện, và mỗi ngày, không những đọc một kinh Ave mà đọc hàng nghìn kinh, ông cũng chưa cho là đủ.
Lời Nguyện
Kính lạy Mẹ MÂN CÔI, xin cho chúng con có tâm trạng như nhà luật sư: Dâng Mẹ hàng nghìn Kinh Ave cũng chưa cho là đủ.
BÀI ĐỌC: NGÀY 04 THÁNG 10
Ý nghĩa Kinh Kính Mừng: Đọc Kinh Kính Mừng để ngợi khen, tôn vinh, đền đáp tình yêu Thiên Chúa.
Khi Mẹ Maria dạy nhân loại đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta mới thấy rõ sự khiêm nhường của Mẹ lớn lao làm sao: Mẹ không dạy nhân loại ca tụng Thánh Danh Mẹ, nhưng là dạy nhân loại ngợi khen, chúc tụng,
tôn vinh cùng đền đáp tình yêu Thiên Chúa đã yêu dấu chúng ta thế nào, khi Ngôi Hai nhập thể. Sự ca ngợi cùng đền đáp tình yêu Thiên Chúa không mang lại vinh quang cho Chúa, mà kéo ân sủng tình yêu cùng sự thứ tha của Chúa xuống cho nhân loại. Thế nên tại sao Mẹ lại dạy loài người chúng ta phải siêng năng lần hạt MÂN CÔI. Thiên Chúa cảm động xiết bao khi thấy nhân loại luôn ngợi khen đền tạ Tình Yêu của Người trong mọi giây phút. Thiên Chúa nhân từ, Người sẽ lại tuôn đổ Tình Yêu hơn nữa, cùng tha thứ cho loài người án công thẳng đã ra.
Siêng năng lần hạt là năng ngợi khen Thiên Chúa để kéo ơn tha thứ xuống cho nhân loại.
Mẹ Maria đã ẩn dấu Mẹ đi để chỉ nghĩ đến phần rỗi nhân loại trước cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Cha, nên Mẹ đã khẩn thiết kêu nài loài người phải siêng năng ngợi khen cùng nhận biết Tình Yêu của Thiên Chúa yêu dấu loài người, hầu ơn tha thứ được đến với tất cả nhân loại. Nếu tất cả chúng ta đều thực thi mệnh lệnh Mẹ Thiên Chúa ban ra (s.đ.d. trang 60).
Giai Thoại
Đức Mẹ nằm vạ
Đệ tử là biệt danh khiêm tốn của Đấng Đáng kính Gioan Hêrôn (Joan Herold), Dòng Anh Em Thuyết Giáo.
Trong bài giảng 161, ngài kể lại mẩu chuyện cảm động sau đây:
Một ông kia đã lập gia đình và sống trong tội lỗi. Vợ đương sự rất đạo đức, ngày đêm năn nỉ chàng dứt bỏ đường tà. Chàng coi như pha. Nàng cố gắng van xin mãi, ít nhất là trong thảm trạng đó, chàng trung thành với một việc sùng kính nào đó đối với Đức Trinh Nữ Maria. Nàng yêu cầu: “Thôi, anh nể tình em, chỉ đọc một Kinh Ave mỗi lần anh đi qua tượng ảnh Đức Mẹ”. Anh chàng chấp nhận.
Một đêm kia, trên đường truy hoan, chàng thấy xa xa một ánh sáng. Chàng đến và nhận ra là một cây đèn thắp trước một tượng Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng. Chàng đọc Kinh Kính Mừng như thông lệ.
Nhưng chàng thấy gì? Chúa Hài Đồng tràn đầy những thương tích dầm dề máu chảy.
Khiếp sợ và cảm kích nghĩ là chính mình, bởi tội lỗi mình gây nên thương tích cho Đấng Cứu Chuộc, chàng khóc nức nở. Nhưng kìa, Chúa Hài Nhi quay mặt đi không nhìn chàng. Tội nhân hết sức thẹn thùng, ngỏ lời cùng Đức Trinh Nữ: “Hỡi Mẹ nhân hậu, Con Mẹ từ khước con. Con chạy đến cùng Mẹ là Mẹ Người và là Đấng biện hộ quyền phép vô song mà cũng nhân hậu vô cùng nữa. Vậy xin Mẹ hãy giúp con, cầu bầu cùng Chúa cho con”.
Đức Mẹ liền đáp: “À, các người tội nhân, các người gọi ta là Mẹ nhân hậu, nhưng các người không ngừng, vì thế, không ngừng làm cho Ta trở thành một người, một người Mẹ đau khổ khi tái diễn tấn thương khó của Con Ta và khổ não cho chính Ta nữa.
Tuy nhiên Mẹ Maria không thể để chàng trở về, không được an ủi. Anh chàng đã chào kính Mẹ bằng kinh Ave và vừa quì dưới chân Mẹ. Mẹ quay về phía Chúa Giêsu để xin tha thứ cho kẻ bất hạnh. Nhưng Chúa tỏ ra không thể tha thứ.
Đức Trinh Nữ để Chúa nằm trong khám và quỳ xuống nói với Người: “Con ơi! Mẹ quỳ mãi dưới chân Con cho đến khi Con tha thứ cho tội nhân này, Mẹ mới đứng dậy”.
Chúa thưa: “Thưa Mẹ, Con không thể từ chối sự gì của Mẹ, Mẹ muốn Con tha cho nó? Thế thì Con tha vì yêu mến Mẹ. Xin Mẹ bảo nó đến hôn các thương tích của Con”.
Phạm nhân bước tới, giàn giụa nước mắt và hôn đến đâu thương tích Chúa biến tan đến đó. Sau cùng, Chúa ôm chàng để tỏ dấu thứ tha.
Hoàn toàn đổi mới, tội nhân từ đó sống như một vị thánh và mỗi ngày đọc hàng ngàn hàng vạn Kinh Ave Maria để tạ ơn Mẹ.
Lời Nguyện
Lạy Mẹ MÂN CÔI, nếu hằng ngày con không đọc được hằng ngàn, hằng vạn Kinh Kính Mừng, ít nữa xin cho con nhớ đọc 50 kinh, 100 kinh, để con biết nguyện xin như Rabindranath Tagore:
“Hồn tôi ơi,
Sao ngươi mất dần kiên nhẫn?
Đấng canh giữ chim trời, dã thú và côn trùng,
Đấng đã chăm sóc ngươi khi ngươi còn trong lòng mẹ,
Làm sao Người không bảo vệ ngươi một khi ngươi đã chào đời”.
BÀI ĐỌC: NGÀY 05 THÁNG 10
Ý nghĩa kinh kính mừng: Đọc Kinh Kính Mừng là cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa hơn hết
Thiên Chúa quá nhân từ để Người không còn nhìn thấy tội lỗi chúng ta nữa khi chúng ta cứ luôn miệng ngợi khen và lòng trí chúng ta luôn hướng về Người mà tán tạ tình Người yêu dấu chúng ta. Như thánh nữ Têrêxa nhỏ đã nói: “Thiên Chúa mù và dốt không biết tính toán”. Vì Người sẽ quên hết và không còn nhìn thấy những tội lỗi, những xấu xa và ô nhiễm nơi hồn xác chúng ta nữa, khi chúng ta luôn ngợi khen và ca tụng tình yêu Người. Vậy khi dạy nhân loại đọc Kính Kính Mừng là Mẹ Maria đã dạy cho nhân loại biết cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa hơn hết những lời cầu nguyện khác.
– Ngợi khen, tán dương Tình Yêu Thiên Chúa để kéo Tình Yêu và sự thứ tha đến với mọi người.
Kinh Mân Côi đã liên kết các linh hồn thế nào khi chúng ta sử dụng. Trong Tình Yêu Thiên Chúa nơi các linh hồn như chúng ta đã rõ: Tất
cả chúng ta đều là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm là Hội Thánh Chúa. Mỗi lần chúng ta ngợi khen cùng tán dương Tình Yêu Thiên Chúa trong các linh hồn thì không những chúng ta đã ngợi khen Thiên Chúa trong tình yêu Chúa ban cho chúng ta, mà lại ngợi khen thay cho tất cả mọi chi thể trong thân mình chúng ta nữa. Nếu sự chúng ta ngợi khen ấy đủ cho tất cả mọi hơi thở đang hiện diện trên trần gian, thì chính chúng ta đã kéo Tình Yêu cùng sự thứ tha đến với tất cả mọi người trong nhân loại (s.đ.d. trang 61).
Giai Thoại
Ghì chặt tội nhân không cho đến máy chém
Trong quyển III sách truyện các phép lạ số 39, L.M. Radi (Razzi) thuộc dòng thánh Biển Đức kể truyện lạ sau:
Một thanh niên mồ côi cha sớm, được mẹ gửi ở trong triều của một ông hoàng. Khi từ giã, bà mẹ đạo đức và rất sùng kính Đức Trinh Nữ, bắt con hứa mỗi ngày đọc 1 Kinh Kính Mừng và thêm lời nguyện đơn giản: “Lạy Đức Trinh Nữ có phúc, xin bảo trợ con trong giờ lâm tử”.
Thế là anh chàng vào triều. Nhưng chẳng bao lâu, anh quá trác táng, ông hoàng buộc phải thải hồi. Tuyệt vọng và không biết sống bằng cách nào, anh bắt đầu đi cướp của giết người. Tuy vậy, anh vẫn tiếp tục đọc 1 kinh Ave hàng ngày và lời nguyện đã hứa với Mẹ. Rồi anh bị bắt và bị án tử hình.
Trước ngày bị xử, ở trong tù, đương sự than phiền nỗi ô nhục của mình, nỗi đau thương của mẹ và cái chết đang chờ đợi chàng. Quỷ lấy hình một thanh niên tuấn tú hiện ra và hứa cứu chàng khỏi tù và khỏi chết, nếu chàng chịu làm điều gì quỷ bảo. Người bất hạnh tuyên bố sẵn sàng hết.
Thanh niên trá hình cho chàng biết hắn là quỷ đến cứu giúp chàng. Hắn bắt đầu buộc từ bỏ Chúa Giêsu Kitô và các bí tích. Tên khốn nạn bằng lòng. Quỷ còn buộc hắn bỏ Đức Trinh Nữ và không nhận sự bảo
hộ của Người. Anh chàng đáp: “Không bao giờ! Và tâm trí hướng về Mẹ Maria, chàng đọc Kinh Ave và lời nguyện mà thân mẫu bảo.
Nghe vậy, quỷ biến mất, để tên tử tù khốn khổ, buồn phiền đến cực độ, vì đã phạm tội tày đình là chối Chúa. Nhưng chàng chạy đến cùng Đức Trinh Nữ. Người ban cho chàng ơn thống hối tội lỗi và xưng tội với lòng ăn năn trọn hảo trong lệ sầu chan chứa.
Trên đường đến máy chém, tên tử tội (tù) đi ngang qua trước tượng Đức Mẹ. Chàng chào kính bằng Kinh Ave Maria và lời nguyện xin hộ phù trong giờ lâm chung.
Và kinh ngạc thay! Mọi người đều thấy tượng Đức Mẹ cúi đầu chào lại. Vô cùng cảm động, chàng xin đến hôn chân Mẹ. Các người thi hành án lệnh chẳng thích gì việc đó, nhưng vì quần chúng biểu dương ồn ào mới xúc động, buộc lòng họ cho chàng đến đặt đôi môi nồng hối lệ lên thánh túc Mẹ.
Khi chàng cúi hôn, tượng Đức Mẹ bỗng sinh động, đưa tay ra nắm tay chàng chặt đến nỗi không thể rứt chàng ra được. Quần chúng thấy sự lạ, hô to: “Xin tha! Xin tha!” Và chàng được tha bổng.
Anh chàng hồi hương sống đời sống thánh thiện và trở nên tông đồ nhiệt thành của Kinh Ave vạn ứng, đã cứu chàng hai phần hồn xác.
Lời Nguyện
Lạy Mẹ MÂN CÔI, chúng con thật nghẹn ngào trước lòng khoan dung, nhân hậu bao la, bát ngát như trời như bể của Mẹ.
Xin cho chúng con luôn hăng say đọc Kinh Mân Côi, để ít nữa chúng con cũng biết nguyện xin như Rabindranath Tagore:
“Tim tôi hỡi!
Làm sao ngươi có thể quay đi khỏi nụ cười của Chúa ngươi và lạc loài xa Chúa.
Ngươi đã bỏ Đấng dấu yêu ngươi để nhớ đến kẻ khác, vì thế công việc ngươi hóa thành vô nghĩa”.
Lạy Mẹ Maria nắm chặt tay một tử tội, vì chàng đã chào Mẹ với Kinh Kính Mừng.
BÀI ĐỌC: NGÀY 06 THÁNG 10
Ý nghĩa siêu việt của Kinh Kính Mừng: Mẹ Maria là hiện thân của Thiên Chúa giữa loài người
Ý nghĩa thứ hai siêu việt hơn ý nghĩa thứ nhất. Trong mầu nhiệm Maria mà chúng ta đã biết nơi đây, Mẹ Maria là hiện thân của Ngôi Ba Thiên Chúa ở giữa loài người. Nên khi chúng ta đọc Kinh Mân Côi là chúng ta ca tụng Thiên Chúa trong Tình Yêu mà Người đã thể hiện giữa loài người nơi Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Ngôi Ba hiện diện giữa loài người trong xác thánh Maria để tỏ lộ Tình Yêu Thiên Chúa nơi Ngôi Hai nhập thể, hầu cho Tình Yêu Thiên Chúa được duy trì và tái sinh sự sống cho nhân loại trong chính Ngôi Hai và bởi Ngôi Ba.
– Đọc Kinh Kính Mừng là ta tha thiết xin ơn cứu rỗi:
Chúng ta đã biết rõ: sự sống của Ngôi Hai trong xác phàm được Phục sinh bởi Ngôi Ba. Vậy khi Ngôi Hai đã sống lại vinh hiển thế nào thì sự sống của loài người cũng được vinh hiển như vậy bởi Ngôi Ba. (Điều này lại nhắc chúng ta nhớ lại lời trăn trối trong phút cuối cùng của Chúa Ngôi Hai là loài người phải được tái sinh trong cung lòng Mẹ đồng trinh Maria). Thế nên trong ý nghĩa thứ hai của Kinh Kính Mừng, Mẹ Maria đã dạy loài người ca tụng tình yêu lạ lùng của Chúa, trong sự tái sinh sự sống cho chính nhân loại tội lỗi trong sự sống Đức Kitô, bởi Tình Yêu là Chúa Thánh Thần. Cùng với ý nghĩa này khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta đã tha thiết xin được cứu rỗi bởi Tình Yêu Thiên Chúa trong nhân loại (s.đ.d trang 61–61).
Giai Thoại
Đức Mẹ đi tu 15 năm
Có nhiều tác giả danh tiếng như Césaire, Rho, Raymond Dòng Tên, Niquet Dòng Tên… đã tường thuật câu chuyện hy hữu sau đây:
Nữ tu Bêatrích, tuy đã ở Phước Viện Phông-rô (Béatrix, Fontevrault) vẫn chưa dứt mùi tục lụy dường kia cay đắng. Thiếu nữ đã phải lòng một thanh niên và quyết trốn theo chàng để thỏa tình nguyệt hoa.
Nàng có nhiệm vụ giữ cửa nhà dòng, nên trước khi bôn đào, đã đến một tượng Đức Maria gửi bộ khóa lại. Nàng qua vùng kế cận để buông theo nghiệp phấn hương.
Sau 15 năm giang hồ, ngày kia, nàng gặp người cung cấp lương thực cho Nhà Dòng. Khi đã điều tra kỹ lưỡng và biết chắc chắn người kia không rõ tông tích mình, nàng hỏi đương sự có biết dì phước Bêatrích không?
– Tôi biết rõ dì phước ấy lắm, dì là một thánh sống, anh chàng đáp, và thêm: Hiện giờ dì là Bề trên Tập viện. Nghe vậy, từ ngơ ngác đến kinh hãi, Bêatrích không hiểu biết ất giáp gì hết.
Nàng thay đổi xiêm y, ẩn hình khách lạ và đến Dòng tìm hiểu điều bí ẩn. Khách bấm chuông xin gặp nữ tu Bêatrích. Người ra gặp chính là Đức Trinh Nữ mà nàng, khi trốn Phước diện theo trai, đã để dưới chân bộ chìa khóa và áo nhà tu. Mẹ Thiên Chúa dịu dàng bảo: “Bêatrích con, con nào biết là để bảo toàn danh giá cho con, Mẹ đã mang lốt hình hài giống con, và trong 15 năm, con ở ngoài dòng và xa Chúa, Mẹ đã chu toàn mọi phần vụ thay thế cho con. Con gái của Mẹ, con hãy trở lại Dòng và ăn năn hối cải, Con Mẹ vẫn còn chờ đợi con. Con hãy nỗ lực duy trì danh thơm Mẹ đã tạo cho con bằng đời sống gương mẫu.”
Nói đoạn Người biến mất. Bêatrích vào tu lại.
Để tỏ lòng biết ơn và đền ơn Đấng đã tỏ lượng khoan hồng phù trợ, nàng đã sống chuỗi ngày còn lại hết sức thánh thiện. Trước khi chết, nàng kể lại tự sự và không quên nêu lên như một lời trối:
“Gặp hoàn cảnh nào, và bất cứ sao sao đi nữa cũng phải luôn luôn chào kính Mẹ bằng Kinh Mân Côi. Tôi đã đọc Kinh Mân Côi hằng ngày. Các bạn cũng phải đọc Kinh Cứu Rỗi đó hằng ngày!”.
Lời Nguyện
Kính lạy Mẹ MÂN CÔI yêu dấu, lòng từ bi của Mẹ thật bao la như biển Thái Bình. Chúng con đang ngợp sóng lân ái đó và nguyện chết ngất đi trong Tình Yêu của Mẹ, nguyện luôn luôn chào yêu Mẹ bằng Kinh Mân Côi.
BÀI ĐỌC: NGÀY 07 THÁNG 10
Ý nghĩa siêu việt của Kinh Kính Mừng: ta nghĩ gì khi đã bỏ phí thời gian không lần chuỗi Mân Côi?
Ðến đây chúng ta đã hiểu rõ về ý nghĩa của Kinh Kính Mừng. Chúng ta nghĩ sao về những ngày tháng mà chúng ta đã bỏ phí vô ích không lần Chuỗi MÂN CÔI?
Chúng ta nghĩ sao về những ý nghĩ và lời nói đã xúc phạm đến tình yêu Thiên Chúa cách nặng nề, khi chúng ta chê chối và coi thường Kinh Mân Côi?
Chúng ta nghĩ thế nào trước mệnh lệnh mà Mẹ Thiên Chúa đã khẩn nài chúng ta thực thi? Ðọc Kinh Mân Côi là ca ngợi một thụ tạo hay là những lời khẩn cầu cho chính sự sống chúng ta?
Ðọc Kinh Mân Côi có phải là chúng ta đã thể hiện tình yêu giữa các chi thể trong thân thể mầu nhiệm là Hội Thánh Chúa chăng?
Ðọc Kinh Mân Côi, phải chăng chúng ta đã kéo tình yêu cùng ơn tha thứ từ Thiên Chúa xuống cho tất cả những người tội lỗi?
Chúng ta hãy suy nghĩ trong sự soi sáng của Thánh Thần Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy được công việc phải làm cho chính sự sống chúng ta hôm nay.
Ðể tìm thấy chính xác cách khẩn thiết cho công việc chúng ta phải làm, chúng ta hãy tự hỏi: Mẹ Thiên Chúa có dạy chúng ta làm một việc vô ích không? Hay công việc ấy có lợi cho chính sự sống chúng ta? Và hơn nữa cho chính sự sống của mọi linh hồn mà Thiên Chúa đã phải cứu bằng giá máu của Người.
Hỏi như thế là chúng ta đã trả lời Mẹ Thiên Chúa khi hiện ra tại Fatima với 3 thần dược để cứu linh hồn nhân loại.
Giai Thoại
Một cô gái nõn nà được nâng trên cánh nhạc.
Trong sách Affecti Scambievoli, phần II chương VIII của linh mục Auriemma, mẩu truyện sau đây được tường trần như một bài thơ diễm ảo.
Một thiếu nữ dịu dàng, trinh trong và nõn nà như một nhành hoa rừng, phô hương sắc bên bờ suối trong mát, ngày ngày chăm sóc một bầy chiên hiền hậu. Nàng trìu mến Ðức Trinh Nữ đến nỗi nàng cảm thấy chỉ có một diễm phúc ở thế trần, là lòng, trí và chân chỉ nhắm đến một nguyện đường nhỏ, khuất giữa đồi núi bao la trùng điệp.
Trong khi đoàn chiên gặm cỏ và nhởn nhơ chung quanh nàng, nàng lần hạt và cầu nguyện trước Bà Mẹ muôn vàn kính mến.
Mẹ Maria được biểu trưng bằng một pho tượng tầm thường không được trang sức, điểm xuyết.
Thấy vậy, cô gái nghèo, lòng se lại, băn khoăn… rồi lên thác xuống ghềnh, nàng tìm lá móc, chặt cây nứa về: cây khéo vót thành óng chuốt,
lá sành phơi trở nên nõn nà, được chắp thành một áo tơi xinh xắn mang cho Mẹ.
Ðôi ba hôm nàng bay lượn qua rừng qua suối như một con bướm và đi tìm đủ thứ hoa ngào ngạt hương sắc đem về kết thành mũ triều thiên đội cho Mẹ.
Nàng kính cẩn bước lên bàn thờ và âu yếm thưa: “Mẹ, con muốn đội lên đầu Mẹ một mũ triều thiên óng ánh ngọc châu, nhưng con nghèo quá Mẹ ạ. Xin Mẹ vui nhận cái mũ bằng hoa hèn mọn này, nói lên lòng yêu mến thiết tha nồng hậu của con”.
Sau đó, cô gái ngã bệnh và sắp chết. Hai tu sĩ qua xứ nàng và nghỉ giải lao dưới một gốc cây. Một thầy ngủ một thầy thức, nhưng cả hai cùng có một thị kiến. Hai thầy chiêm ngưỡng một đoàn thiếu nữ đẹp như tiên. Giữa đám tố nữ đó nổi bật một hoa khôi uy nghi và lộng lẫy hơn cả.
Một thầy hỏi:
– Thưa hoa hậu, ngài là ai mà đi đâu qua lối này?
– Ta là Mẹ Thiên Chúa, bà đáp, các trinh nữ kia và ta đến làng gần đây để thăm viếng một cô gái chăn chiên nghèo sắp lìa trần. Vì trước đây nàng thường đến chào kính Ta bằng Kinh Mân Côi.
Nói đoạn Bà biến mất.
Hai nhà tu hành bảo nhau: “Nào chúng ta đến thăm cô mục tử.”
Quý thầy vào làng và tìm thấy trong túp lều xơ xác người bần nữ hấp hối trên mấy nắm rơm.
Nàng bảo: “Quý thầy hãy cầu nguyện Chúa để xem thấy Ðấng đang đến phù trợ con”.
Các tu sĩ quỳ xuống và thấy Mẹ Maria, tay cầm một mũ triều thiên cúi xuống ủy lạo cô gái sắp chết. Các trinh nữ khác xướng lên những ca khúc êm đềm, như mời hồn em ra khỏi xác, để Mẹ Maria đội mũ triều thiên cho em, và được nâng trên cánh nhạc du dương đến cõi vĩnh phúc muôn đời.
Lời Nguyện
Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời, xin giữ trong con một tâm hồn trẻ thơ tinh tuyền trong suốt như một dòng suối. Xin đem đến cho con, một tâm hồn đơn sơ, không mang vương chất chứa sầu muộn. Một tâm hồn cao đẹp để hiến dâng, luôn mở rộng cho cảm thông nhân ái. Một tâm hồn trung tín và quảng đại, không hay quên bất cứ việc thiện nào, không oán hờn dẫu mảy may sự ác…