ĐỨC  MARIA  VÀ  ƠN  CỨU  CỨU  RỖI

          Để trả lời cho  câu hỏi: Có phải Đức Mẹ được cứu chuộc  trước khi  Đức Ki Tô ra đời hay không, chúng ta cần  biết  thế nào là… cứu chuộc ? Thông thường, người Công Giáo xưa nay vẫn cho rằng Cứu Chuộc hay Cứu Rỗi có nghĩa  sau khi chết  nếu ai sống trong ơn nghĩa Chúa thì sẽ được lên Thiên Đàng hưởng phúc đời đời.

          Hiểu như vậy là…đúng. Tuy nhiên trong trường hợp của Đức  Mẹ thì sao ?  Theo thần học thì Ngài  giống như bao tín hữu khác, nghĩa là  cũng chỉ được…cứu sau cái chết của Chúa Giê Su : “ Như thế trước khi  Chúa Ki Tô hoàn tất Chương Trình Cứu Độ của Chúa Cha qua mầu nhiệm Vượt Qua thì công nghiệp cứu chuộc đó chưa có để ban phát cho ai dù là riêng cho  Mẹ Maria vì Chúa Giê Su chưa “ Uống Chén Đắng” mà Chúa Cha muốn trao cho Ngài” ( Nguồn ĐBĐM – 15/4/2019 – Lm Ngô Tôn Huấn – Phải chăng Đức Mẹ đã được TC ban ơn cứu độ  trước khi làm Mẹ Chúa Gie Su ? ).

Nếu cho rằng Đức Mẹ cũng chỉ được cứu tức…lên Thiên Đàng sau cái chết của Chúa Giê Su thì làm sao hiểu được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ngài ? Chính là bởi Tội Nguyên Tổ mà loài người đã sống trong tội và phải chết: “ Cho nên như bởi một người mà tội lỗi đã thâm nhập  vào thế gian. Lại bởi tội mà có sự chết và như vậy sự chết đã lan khắp mọi người vì mọi người đều đã phạm tội” ( Rm 5, 12 ).

Riêng với Đức Mẹ, vì  đã được Ơn Vô Nhiễm thế nên không thể chết và vì thế  vấn đề đặt ra Ngài có được Ơn Cứu Độ  trước hay sau  cái chết của Chúa Giê Su  không  còn nghĩa lý gì nữa !

Đức Mẹ không  chết tức lên trời cả hồn lẫn xác, đó chẳng phải là đức tin của người Công Giáo đó sao ?  Vả lại  nếu  con  người chỉ được cứu sau cái chết của Chúa Giê Su thì chúng ta phải hiểu làm sao về số phận  những ai  đã chết trong thời Cựu Ước chẳng hạn các tổ phụ Apraham, Isaac, Jacop v.v…các vua như thánh vương Đa Vit…các tiên tri như Isaia, Elia, Giêremia, các quan xét như Daniel…Các vị tử đạo như nhà Macabe ….Chẳng những các vị ấy đều được cứu rỗ mà ngay cả những người còn mắc tội cũng vẫn được cứu  khi  Chúa Ki Tô Phục Sinh viếng thăm  ngục tổ tông: “ Chính  Đức Ki Tô  đã chịu chết cho người tội lỗi hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác  Người đã chết trong xác thịt nhưng lại sống trong tâm linh. Người đã đến rao giảng cho các vong linh còn bị giam cầm  tức là những người  xưa kia vì không biết  nên đã không vâng phục trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn đợi chờ là thời ông Noe đóng tàu. Trong con tàu ấy một số cả thảy có tám người  được cứu thoát nhờ nước” ( 1Pr 3, 18 -20 ).

          Không kể n hững người trong thời Noe, ngoài ra những người sống trong ơn nghĩa Chúa đều  được cứu rỗi dù trước hay sau cái chết của Chúa Giê Su. Nếu không phải như vậy  thì làm sao hiểu dược  tiên tri Mai Sen và Elia từ đâu hiện đến cùng đàm đạo với Chúa Giê Su trên núi Tabore ? “ Sau 06 ngày Chúa Giê Su đem  Phê Rô, Giacobe và Gioan  là em người lên núi cao. Ngài biến hình trước mặt họ, mặt Ngài sáng láng như  mặt trời. Áo Ngài trắng như ánh sáng. Kìa có Mai Sen và Elia kiện ra, đàm đạo cùng Ngài” ( Mt 17, 1 -3 ).

Sự hiện đến của Mai Sen và Elia như thế  chắc hẳn các ngài phải đến từ Thiên  Đàng hiểu như đó là Thực Tại tràn đầy ánh sáng và phúc lạc  mà ngôn ngữ trần gian không  sao diễn tả. Thực Tại ấy chính là Nước Chúa, Chốn Nghỉ Ngơi đời đời  mà Thiên Chúa đã sắm sẵn  từ  thuở đời cho những kẻ được Ngài tuyển chọn.

Chính  bởi Nước Thiên Đàng Hằng Vui, Hằng Sống  đã hiện hữu từ thuở đời đời ấy,  tiên tri Simeon sau khi  bồng ẵm Ấu Chúa trên tay đã thốt lên lời cảm tạ: “ Lạy Chúa, giờ đây xin Chúa cho tôi tớ Chúa được an bình ra đi theo như lời hứa: Vì con mắt tôi đã thấy được Ơn Cứu Rỗi mà Chúa đã sắm sẵn  trước mặt  muôn dân” ( lc 2, 29 -31 ).

Thiên Đàng ( Nước Trời ) là nơi đã được  Thiên Chúa …sắm sẵn từ thuở trước vô cùng,  nhưng với quan điểm thần học thì không phải  vậy: “ Do đó không thể nói rằng  Chúa Cha đã ban Ơn Cứu Độ cho Mẹ Maria, người đầy ơn phúc  vì đã sinh Con Chúa Trời  và cộng tác tích cực  vào việc thi hành  Chương Trình Cứu Chuộc nhân loại của Chúa Giê Su Ki Tô. Nghĩa là  mọi người kể cả Đức  Trinh Nữ Maria dù vẹn toàn  vì không mắc  tội tổ tông và mọi tội cá nhân đều phải nhận ơn  cứu chuộc của  Chúa Ki Tô để vào Nước Trời hưởng Thánh Nhan Chúa là hạnh phúc của các Thánh  và các thiên thần. Lý do là chỉ một mình  Chúa  Ki Tô là Đấng Trung Gian Duy Nhất  giữa Thiên Chúa và loài người trong việc cứu độ nhân loại như lời trích dẫn KT trên đây. Cho nên  khi  Người chưa hoàn tất  công cuộc cứu chuộc loài người  qua  Hy tế Thập Giá thì ơn cứu độ đó chưa  sẵn có để ban cho ai. Vả lại nếu ơn đó đã sẵn có  thì Chúa Ki Tô không cần phải đến thế gian  để hiến mạng sống mình  làm giá cứu chuộc  cho muôn người” ( Nguồn ĐBĐM 15/4/2019 – Lm Ngô Tôn Huấn đã dẫn ).

Quan niệm thần học cho rằng: nếu ơn cứu chuộc  tức Nước Thiên Đàng đã…sẵn có thì Đức Ki Tô  chẳng cần gì phải đến thế gian  hiến mạng sống mình  thì thật quá ư lầm lẫn. Tại sao ? Bởi vì nước Thiên Đàng  cần được hiểu như là Nước Trời Mầu Nhiệm là Sự Sống Đời Đời  cũng là Đấng Cha nội tại trong mỗi người.  Thực Tại ấy tuy vẫn…sẵn có đấy nhưng không nhận biết ngoại trừ Đức Ki Tô và những ai Ngài muốn mạc khải: “  Ngoài Cha không ai biết Con. Ngoài Con và người nào Con muốn mạc khải cũng không ai biết Cha” ( Lc 10, 22 ).

Đức Ki Tô được gọi là Đấng Cứu Chuộc  có nghĩa Ngài đến để…chuộc lại cái tưởng chừng như đã mất. Cái tưởng chừng đã mất đó chính là Hình Ảnh Thiên Chúa là bản tính Con Thiên Chúa  đã được tạo dựng nơi hết thảy con người, bậc Thánh không tăng, kẻ phàm không giảm ( St st 1, 26 ).

Được tạo dựng là Hình Ảnh Thiên Chúa  là Con Thiên Chúa  nhưng do bởi hậu quả của Tội Nguyên Tổ là tội phân biệt thiện, ác ( St 2, 16 ) thế nên con người đã…đành quên mất Thiên Chúa ( oublie de L’ Être ) và vì…quên thế nên con người đã phải lăn lóc mãi trong khổ đau mà không biết.

          Sứ mạng thiên sai của Đức Ki Tô  khi xuống thế  chỉ với mục đích  để rao giảng Nước Trời nội tại tức cái đã sẵn có ở  nơi mỗi người chứ chẳng phải điều chi khác: “ Người Pharisi  hỏi Chúa Giê Su: Nước Thiên Chúa chừng nào đến ? Chúa đáp: Nước TC không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng sẽ không nói được: đây này hay đó kia, vì này Nước TC ở trong các ngươi” ( Lc 17, 20 -21 ).

Không thể nói Nước TC ở đây hay ở kia  bởi đó là Thực Tại siêu việt cả không gian lẫn thời gian, không thể dùng ngôn ngữ diễn tả cũng như lý trí để suy luận này khác nhưng duy chỉ  đức tin mới có thể  nhận biết hầu quay về.

Để có được đức tin hầu quay về với Nước Trời mầu nhiệm nội tại ấy. Đức Ki Tô đưa ra hai điều kiện. Một là lòng sám hối ăn năn và hai là tin vào Tin Mừng: “ Thời đã mãn hãy ăn năn, sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ).

Cuộc khủng hoảng của GH hôm nay sở dĩ ngày càng  trầm kha là vì  đã thiếu cả hai điều kiện  Chúa truyền. Bởi  không còn nhận thức về tội  thế nên  việc ăn năn, sám hối  tội mình  cũng không thể  có. Đang khi đó việc ăn năn, sám hối lại  có liên hệ mật thiết với  lòng tin vào Tin Mừng của Đức Ki Tô về Nước Trời mầu nhiệm nội tại.

Có thể nói cuộc sống của mọi Ki Tô Hữu bất kể  giáo sĩ hay giáo dân  là sống cuộc đời mình trong sự sám hối, ăn năn  hầu quay về với  Nước Trời ở nơi mình. Tuy nhiên để  sống cuộc sống ấy thì phải trải qua cuộc giao tranh  đã được tiên báo từ thuở Sáng Thế giữa Người Nữ Maria và rắn Sa Tan: “ Đức Chúa phán với con rắn: Ta sẽ làm cho mày cùng Người Nữ, dòng dõi mày cùng dòng dõi Người Nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mày còn mày thì sẽ rình cắn gót chân Người” ( St 3, 15 ).

Người Nữ ám chỉ Đức Nữ Trinh Maria còn rắn là Lý Trí Phân Biệt. Gót chân người nữ tượng trưng cho sự khiêm nhường, vâng phục, tự hạ…Còn đầu rắn cho sự cứng đầu, kiêu ngạo. Sự tiên báo ấy cho thấy sẽ có cuộc giao tranh khốc liệt   diễn ra giữa Đức Maria Vô Nhiễm  Nguyên Tội  và quỷ dữ Sa Tan, kết quả cuối cùng  Sa Tan sẽ bị đánh bại: “ Con rồng lớn bị quăng xuống tức là con rắn xưa ( Nơi Vườn Địa Đàng ) gọi là ma quỷ và Sa Tan  đứa lừa dối cả và thiên hạ. Nó bị quăng xuống đất, các sứ giả của nó  cũng bị quăng xuống nữa” ( Kh 12, 9 ).

Sa Tan lừa dối bằng chiêu bài phân biệt thiện ác: “ Eva nói với con rắn: Chúng ta được ăn các trái cây trong vườn. Song về phần trái cây mọc giữa vườn, Đức Chúa phán: hai người chẳng nên ăn  và cũng chẳng nên đá động đến, e khi  hai người  phải chết chăng ? Rắn bèn nói: hai người chẳng có chết đâu. Nhưng Đức Chúa biết rằng hễ ngày nào hai người ăn trái đó mắt mình mở ra sẽ như Đức Chúa, biết điều thiện, điều ác” ( St 3, 2 -8 ).

Mắt mở ra đó là con mắt xác thịt và khi mắt xác thịt mở ra sẽ đưa đến sự hình thành  thấy  có một “ Cái Ta”  ( Ngã Chấp ) để rồi đưa đến tranh chấp  giữa người với người, giữa dân tộc này với dân tộc khác, chủng tộc này với chủng tộc khác, tôn giáo này với tôn giáo khác…

          Chính là do nơi phân biệt cho đây là thiện, kia là ác đó mà con người đã gây nên bao giống tội, tham, sân, ganh ghét, đố kỵ, hận thù….tất cả là do  Sa Tan, đứa lừa dối cả và thiên hạ gây nên. Vì vậy, để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù ác độc ấy, Thiên Chúa  của Lòng Xót Thương  đã  ban đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội  cho Đức  Maria để Ngài là chủ soái  cho cuộc chiến  trường kỳ  này.

Với lời tiên  báo về cuộc giao tranh giữa Người Nữ và Sa Tan cho thấy đặc  ân Vô Nhiễm Nguyên Tôi của Đức  Mẹ đã có từ trước muôn đời. Thế nhưng  bởi nguyên nhân nào lại có  sự tranh luận của các nhà thần học trong đó có cả các thánh  cũng không có sự nhất trí ? “ Thánh Benado  rất mực tôn kính Đức  Mẹ thế mà ngài vẫn phản đối cách quyết liệt giáo lý Đức Mẹ đầu thai vô nhiễm nguyên tội nhân dịp các kinh sĩ địa phận Lyon tổ chức trọng thể Lễ Đức  Mẹ Vô Nhiễm khoảng năm 1140, ngài viết:

“ Chỉ có Đức Ki Tô đầu thai là hoàn toàn sạch mọi tội lỗi, vì thế mới xứng đáng mừng Lễ trọng thể Đức Ki Tô đầu thai tinh tuyền. Thánh Alberto, Thánh Bonaventura thế kỷ 13 cũng tỏ ra rất dè dặt về giáo lý Đức Mẹ VNNT. Ngay cả thánh Tô Ma Aquino cũng phân vân  và hình như ngài chủ trương lý thuyết: Đức Mẹ đầu thai vẫn mắc tội tổ tông truyền nhưng ngay khi đó Ngài được Thánh Hóa ( Tương tự trường hợp của Thánh Gioan Tẩy Giả” ( nguồn Conggiao. Info 9/12/2011 ).

Tại sao các nhà thần học về sau được phong là tiến sĩ HT mà cũng không thể nhất trí  với đặc ân Vô Nhiễm của Đức Mẹ ? Đó là vì các vị ấy cũng như Giáo Hội ngày nay  vẫn bị chi phối nặng nề bởi  thuyết Duy Lý  đã có từ thời các giáo phụ xa xưa. Bao lâu còn bị ảnh hưởng  bởi  thuyết Duy Lý  thì sẽ không thể hiểu được Tội Nguyên Tổ nói chung và đặc ân Vô Nhiễm  của Đức Mẹ  nói riêng.

Với Duy Lý thì cố nhiên không thể hiểu bản chất của Tội Nguyên Tổ.  Lý do bởi vì một đàng Duy Lý chủ trương phân biệt, một đàng Ơn Vô Nhiễm của Đức Mẹ là  Ơn Vô Phân Biệt. Lại nữa cũng vì không nhận ra Tội Nguyên Tổ là tội phân biệt  thế nên thần học  sẽ không bao giờ có thể nhận ra Thiên Chúa hoặc Nước TC, Nước Trời là Thực  Tại chỉ có thể đạt được bởi Tâm Vô Phân Biệt. Đức Ki Tô nói: “ Quả thật Ta nói cùng các ngươi. Hễ ai chẳng nhận lấy Nước Trời như một con trẻ thì hẳn chẳng được vào đó” ( Lc 18, 17 ).

Con trẻ thì dễ tin, dễ nhận nhưng nào có ai …muốn nên như con trẻ đâu vì thế ngày nay lòng đạo ngày càng sa sút và đức tin thì dường như mất tăm mất tích: “ Dẫu vậy khi Con người đến há còn tìm được đức tin trên mặt đất này chăng” ( lc 18, 8 ).

Chúa nói điều này để chỉ cho Ngày Tân Thế sắp đến với các hiện tượng  đã được báo trước: “ Dân này sẽ dấy nghịch cùng dân kia. Nước nọ đánh nước khác. Nhiều nơi sẽ có dịch bệnh, đói kém, động đất, núi lửa phun trào. Bấy giờ người ta sẽ nộp các ngươi  vào sự hoạn nạn và giết đi. Các ngươi sẽ bị mọi dân ghen ghét vì Danh Ta. Khi ấy nhiều kẻ sẽ vấp phạm, bắt nộp lẫn nhau  và ghen ghét nhau. Nhiều tiên tri giả sẽ dấy lên và lừa dối lắm kẻ. Lại vì cớ  sự gian ác thêm nhiều nên tình thương yêu sẽ  nguội dần. Song ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát” ( Mt 24, 7 -12 ).

Để được cứu thì cần có sự bền đỗ. Nhưng bền đỗ sao được nếu không  có Ơn Chúa nhờ vào Thánh Lễ  hàng ngày  khi  có điều kiện tham dự ? Bền đỗ sao được nếu không  tích cực thi hành ba mệnh lệnh Pha Ti Ma nhất là  với  Chuỗi Mân Côi ?  Đặt hết lòng cậy trông  nơi Đức Mẹ, đó là điều đẹp lòng Chúa nhất bởi đơn giản là vì chính  Chúa…muốn như vậy:

“ Ôi Mẹ Thiên Chúa, tin ở Mẹ con được rỗi. Có Mẹ bảo vệ, con không sợ chi. Mẹ tiếp dẫn con sẽ đánh đuổi mọi địch thù. Vì suy tôn Mẹ là khí cụ cứu rỗi của Chúa ban cho những người mà Chúa muốn họ được cứu rỗi” ( Lời Thánh Gioan Damaceno – Kẻ Nữ Tu Thánh Thiện )./.

Phùng  Văn  Hóa

 

Chia sẻ Bài này:

Related posts