Công Đồng Vatican 2 được mệnh danh là CĐ Đại Kết và cũng chính vì vậy người ta không khỏi đặt lại vấn đề về lòng sùng kính Đức Maria “ Như phái Luthero từng phán đoán = đỉnh cao các giáo huấn sai lầm của Công Giáo Roma nằm trong các tín điều của họ về Đức Nữ Trinh Diễm Phúc Maria. Đối với người Luthero các tín điều này không có căn bản trong Thánh Kinh và chỉ được sự hỗ trợ đáng hồ nghi của truyền thống…và tạo thành không hơn không kém một cuộc tấn công trực diện vào giáo huấn thiêng liêng, theo đó con người chỉ tìm được ơn cứu rỗi nhờ công nghiệp của Chúa Kito mà thôi. Theo cái nhìn của tác giả này “ Phán đoán tổng hợp về nền Thánh Mẫu Học Công Giáo” do một số thần học gia theo phái Luthero nêu ra chứng tỏ nền Thánh Mẫu Học ấy không hợp Thánh Kinh, chỉ là một sản phẩm của sự cao ngạo giáo hoàng và là một bác bỏ học lý về sự công chính” ( Nguồn Vietcatholic News – Vũ văn An Thánh Mẫu Học của Martin Luther và các hệ luận của nó đối với một thánh mẫu học đại kết – 16/3/2010).
Lý do khiến các hệ phái Tin Lành không thể chấp nhận Thánh Mẫu Học tức các tín điều về Đức Mẹ bởi cho rằng nó hoàn toàn không có căn bản Thánh Kinh. Lấy Thánh Kinh làm cơ sở cho mọi phê phán thần học đó là chủ trương của cái gọi là Duy Kinh Thánh ( Sola scriptura ). Tính chất Duy KT này chúng ta thấy nó không chỉ ảnh hưởng nơi các hệ phái Tin Lành nhưng còn với cả Công Giáo. Mặc dù mỗi …nhà đều …duy mỗi kiểu khác nhau, có thể là duy đức tin ( Sola fide ) duy ân sủng ( sola gratia) hoặc duy Tin Mừng v.v… Thế nhưng tất cả đều phát xuất cùng một cái nguồn là duy lý. Một trong những nhà thần học mang nặng ảnh hưởng duy lý đó là linh mục Tissa Balasuriya, viện trưởng viện cao đẳng Aquina ở Colombo ( Tích Lan )Giám đốc Trung Tâm nghiên Cứu Xã Hội và tôn giáo Colombo. Năm 1976 còn là thành viên sáng lập Hiệp Hội Đại kết các nhà thần học thuộc đệ tam thế giới ( Eatwot).
Vào tháng 1/1997 Tòa Thánh Roma quyết định rút phép thông công lm Tissa vì ông đã cho xuất bản cuốn “ Đức Maria và công cuộc giải phóng con người” ( Mary and Human Libération ). Lý do việc rút phép thông công này là bởi tác phẩm ấy được cho là không phù hợp với Thánh mẫu Học của Giáo Hội. Dù rằng sau đó ít lâu việc cất phép thông công này đã được thu hồi, thế nhưng dẫu sao quan điểm này cũng trái ngược hoàn toàn với đức tin Công Giáo. Giáo sư Trần Văn Toàn tiến sĩ triết học và cao đẳng thần học đã viết một thiên khảo luận khá dài, trong đó ông trích dẫn tác phẩm có ý tán thành quan điểm của lm Tissa đồng thời phê phán đường lối tôn sùng Đức Maria của Giáo Hội Công Giáo.
“ Trong phần dẫn nhập tác giả nhận định là theo cái nhìn của anh em Tin Lành thì người Công Giáo chúng ta coi Đức Bà Maria như có một vị trí cao gần bằng Thiên Chúa ( người VN ta trước đây mấy thế kỷ gọi là Đức Chúa Bà, như thế chắc cũng vì lý do như thế ). Vì vậy ông muốn xét lại căn bản của thần học cổ truyền về Đức Bà. Căn bản đó ông thấy là đã được xây dựng trên bốn điểm = một là lối giải thích Thánh kinh theo nghĩa đen về mấy chương đầu của sách STK. Hai là giả thuyết về tình trạng nguyên thủy của loài người về tội nguyên tổ. Ba là lối suy luận thiên về tưởng tượng của các nhà thần học. Bốn là ý thức hệ trọng nam khinh nữ. Trên căn bản đó người ta đặt Đức Bà vào một vị trí ngoại lệ: không vướng mắc tội lỗi gì, không biết gì về cám dỗ. Tác giả nhận xét là nội dung của các sứ điệp mà Đức Bà hiện ra dạy bảo thì thường là tùy thuộc vào cái nhìn của Giáo Hội của mỗi thời đại về đời sống tôn giáo…
..Ví dụ ở Lộ Đức thì Đức Bà hiện ra xưng mình là vô nhiễm nguyên tội nhưng lại không có một lời về giai cấp công nhân đang bị áp bức kịch liệt vào giữa thế kỷ XIX. Đức Bà Fatima thì nói về CS bên Nga Sô Viết mà không nói gì đến chế độ thực dân đang đàn áp biết bao là dân tộc. Nói tóm lại những lối tôn sùng Đức Bà như thế chỉ nhấn mạnh vào lòng đạo có tính cách cá nhân chủ nghĩa chứ không khuyến khích giáo dân tranh đấu cho công lý. Ông viết = nếu chúng tôi khuyến khích cho người ta đặt lại vấn đề Đức Bà Maria thì là vì có ý làm sao cho việc tôn sùng Đức Bà không còn phải là phương tiện đàn áp con người nhưng là lợi khí đem lại cho mọi người nam nữ trên thế giới này một cuộc sống hoàn hảo hơn về mọi mặt” ( Nguồn Vietnameselutheran church.net – Vấn đề Tôn Sùng Đức Bà Maria – Tác giả Antôn Trần Văn Toàn ).
Cho rằng việc tôn sùng Đức Maria trong Giáo Hội Công Giáo từ trước tới nay chỉ là phương tiện được dùng để …đàn áp con người. Điều này thật không sao hiểu nổi, thế nhưng đây lại là cái logic của Thần Học Giải Phóng. Sở dĩ nói …logic là bởi thứ thần học này không bao giờ có thể thoát khỏi đường lối đấu tranh chính trị của chủ nghĩa Mác. Chính bởi không thoát được như thế mà Tissa mới đưa ra những nhận định có phần…quái gở khi cật vấn Đức Mẹ tại sao khi hiện ra tại Lộ Đức chỉ xưng mình là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội lại không có một lời về giai cấp công nhân đang bị áp bức ? Tại sao khi hiện ra ở Fatima chỉ nói đến CS bên Nga Xô mà không nhắc gì đến các chế độ thực dân đang đàn áp biết bao dân tộc ?
Thần Học Giải Phóng thực chất chỉ là một trong những biến tướng của duy lý. Đang khi đó thần học Duy Lý nói chung lại là con đẻ của lối giải nghĩa Kinh Thánh theo nghĩa đen hay còn gọi là nghĩa mặt chữ ( Sens litteral ). Theo nghĩa này thì quả thật có một đấng gọi là Tạo Hóa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày. Có ông Adong, có bà Evà thật và là tổ tông của loài người. Một khi hiểu KT theo nghĩa như vậy thì không có cách chi nhận ra vai trò của Đức Maria trong công cuộc Cứu Độ của Đức Kito. Để nhận ra vai trò ấy thì nhất thiết cần phải hiểu Sách Sáng Thế theo huyền nghĩa và theo nghĩa này thì Đức Maria chính là Người Nữ đạp giập đầu rắn Satan.
I/- Đức Maria – Người Nữ
Cốt lõi của Sách Sáng Thế nói riêng và của toàn bộ Kinh Thánh nói chung nằm trong câu chuyện sa ngã của nguyên tổ. Thiên Chúa tạo dựng con người nên giống Hình Ảnh Người “ ĐCT phán rằng chúng ta hãy làm nên loài người theo như Hình Ảnh Ta” ( St 2, 26 ). Là Hình Ảnh Thiên Chúa, nguyên tổ sống an nhiên nơi Vườn Địa Đàng cùng với mệnh lệnh “ Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn nhưng về cây biết điều thiện điều ác thì chớ hề ăn đến vì một mai ngươi ăn chắc là phải chết” ( st 2, 16 -17). Lệnh cấm đã được ban ra cách rõ ràng = không được …ăn trái cây phân biệt, hễ ăn vào thì phải chết. Ấy vậy nhưng nguyên tổ vẫn cứ nghe theo cám dỗ của rắn Satan để rồi đã phải bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng. Thế nhưng trước khi ban ra lệnh ấy Thiên Chúa đã báo cho biết về một cuộc chiến sẽ diễn ra giữa Người Nữ và rắn “ Ta sẽ làm cho mày cùng Người Nữ. Dòng dõi mày cùng dòng dõi Người Nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mày còn mày thì sẽ rình cắn gót chân Người” ( St 3, 15)
Vì sa ngã nên nguyên tổ đã bị đuổi khỏi Địa Đàng nhưng nếu việc bị đuổi ấy là vĩnh viễn tức ra đi không có ngày về thì thật chẳng còn gì để nói có nghĩa cũng chẳng có cuốn sách gọi là Kinh Thánh để ngày nay chúng ta đọc và giải nghĩa này nọ. Thật vậy toàn bộ Kinh Thánh kể cả Cựu ước và tân ước chỉ có mục đích để ghi chép lại cuộc hành trình ra đi và trở về của Dân Chúa. Việc ra đi ấy trước hết là của nguyên tổ và sau là của tổ phụ Apraham. Tuy khác về tính chất, một đàng là biểu tượng, một đàng là sự kiện nhưng cả hai đều có chung một lời hứa của Thiên Chúa là cho trở về. Thiên Chúa trách phạt con rắn nhưng đồng thời cũng ban lời hứa cho trở về với điều kiện là phải kinh qua một cuộc chiến giữa Người Nữ Maria và Satan tức con rắn xưa nơi vườn Địa Đàng “ Đứa lừa dối cả và thiên hạ” ( Kh 12, 9).
Xưa kia Satan đã lừa dối nguyên tổ cách nào thì đối với cháu con Adong Evà là chúng ta đây cũng vẫn cùng một cách ấy. Thiên Chúa cấm không được ăn trái cây phân biệt, ăn vào sẽ chết. Nhưng Satan lại nói “ Hai người chẳng có chẳng chết đâu, nhưng ĐCT biết rằng hễ ngày nào hai người ăn trái đó mắt mình mở ra sẽ như ĐCT biết điều thiện điều ác” ( St 3, 4 -5). “ Mắt mở ra sẽ như ĐCT biết phân biệt thiện ác” Lời cám dỗ ấy xem ra có vẻ rất ư hấp dẫn. Thế nhưng sau khi ăn, quả nhiên mắt hai người mở ra nhưng mở ra để thấy mình lõa lồ, phải lấy lá cây vả đóng khố che thân” ( St 3, 7). “ Mắt mở ra” ở đây tức là khi con người bước vào vòng lý trí phân biệt thị phi giàu nghèo xấu tốt thiện ác v.v…Tất cả những cái thấy biết bằng lý trí ấy đều đem đến cho con người khổ đau bất hạnh. Thế nhưng ác nghiệt thay con người lại cứ sẵn lòng nghe theo sự cám dỗ chết người đó.
Đức Kito xuống thế rao giảng sự thật nhưng thế gian không chấp nhận. Lý do bởi vẫn cứng lòng nghe theo sự cám dỗ của tên lừa dối Satan. Có lần Chúa đã thẳng thừng vạch mặt nó là quân giết người “ Từ ban đầu ( thuở Sáng Thế) nó là kẻ giết người, chẳng đứng trong lẽ thật vì trong nó không có lẽ thật đâu. Khi nó nói dối thì tự mình nó nói. Vì nó vốn là kẻ nói dối cũng là cha của sự ấy” ( Ga 8, 44).
Satan chuyên nghề dối trá nhưng con người do bởi ảnh hưởng tội nguyên tổ nên không một ai có thể nhận ra ngoại trừ Người Nữ Maria cũng là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nếu Satan sử dụng lý trí kiêu ngạo hòng cám dỗ con người đi vào chỗ chết thì Đức Maria lại lấy lòng khiêm nhường thẳm sâu tức gót chân người nữ đạp giập đầu rắn cứng cỏi kiêu căng hầu cho ta được sống.
II/- Đức Maria – Người Mẹ
Phái Tin Lành Luther cực lực bác bỏ bất cứ ý niệm nào coi Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc với Chúa Kito và là trung gian các ơn. Bởi lẽ họ chỉ công nhận có một đấng trung gian duy nhất là Đức Kito “ Chỉ có một ĐCT và cũng chỉ có một Đấng Trung Gian giữa ĐCT và loài người” ( 1Tm 2, 5). Quả thật Đức Kito là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Tuy nhiên cần phải hiểu Thiên Chúa mà Đức Kito làm trung gian ấy là đấng nào ? nếu cho Thiên Chúa là đấng thần linh Tạo Hóa ngoại tại thì Đức Giesu Kito chẳng chút chi liên hệ. Lý do bởi vì Đấng mà Ngài mạc khải là Đấng Thiên Chúa nội tại đồng thời cũng là Thiên Chúa Tình yêu “ Hễ ai thừa nhận Giesu là Con ĐCT thì ĐCT cứ ở trong người ấy và người ấy cũng ở trong ĐCT. Chúng ta biết và đã tin sự thương yêu ĐCT vẫn có đối với chúng ta. ĐCT là thương yêu, ai cứ ở trong thương yêu thì ở trong ĐCT và ĐCT cũng cứ ở trong người ấy” ( 1Ga 4, 14 -16).
Hễ ai thừa nhận Giesu là Con Thiên Chúa thì Thiên Chúa ở trong người ấy. Lý do bởi vì Thiên Chúa đích thực là Cha của Chúa Giesu nhưng cũng là Cha của mỗi một người trong chúng ta. Nhận biết Thiên Chúa là Cha và như vậy Chúa Giesu hẳn nhiên là người anh cả ( Trưởng Tử ) do cùng một Mẹ là Đức Maria sinh ra “ Cùng một năng lực của Đấng Chí Cao, cùng một tác động của Chúa Thánh Thần đã làm cho Maria sinh hạ Đấng Cứu Chuộc cũng làm cho người tín hữu sinh ra trong nước tái sinh “ ( Thánh Leo in Nativ – Mẹ Trong Đời Tôi ).
Từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tất cả tín hữu chúng ta đều trở nên con cái Thiên Chúa. Mặc dầu phẩm chất Con Thiên Chúa ấy đã in dấu trong tâm hồn nhưng nó mới chỉ ở trong tiềm thể. Dấu ấn ấy có thể ví như một hạt giống tuy không thể mất đi nhưng nó cần phải được dưỡng nuôi chăm sóc để lớn lên. Một khi Đức Maria đã sanh ra Chúa Giesu Đấng Cứu Thế thì Ngài không thể không sinh ra chúng ta. Tại sao ? Bởi vì đây là nhiệm vụ, là vai trò của Mẹ Maria khi Ngài nhận lời với sứ thần Gabriell “ Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” ( Lc 1, 38).
Chính do bởi tiếng Xin Vâng ấy mà Đấng Cứu Thế đã được sinh ra. Thế nhưng việc sinh ấy nếu chỉ sinh có một mình Chúa Giesu thì làm sao Ngài có thể cứu độ nhân loại ? Chúa cứu độ bằng cách mạc khải để con người nhận biết Thiên Chúa đích thực là Đấng Cha của mình. Nhận biết Thiên Chúa là Cha như vậy có nghĩa chúng ta hết thảy đều là con của Ngài. Chân lý này thật vô cùng cao cả nhưng chân lý ấy sẽ không thể nhận ra nếu chúng ta không được sinh ra bởi cùng một Mẹ với Chúa Giesu. Nhìn nhận Đức Maria làm Mẹ và hết lòng tôn sùng Ngài đó cũng là phó chúc của Chúa Giesu với Thánh Gioan khi còn ở trên Thánh Giá “ Chúa Giesu thấy mẹ và môn đồ mà Ngài thương yêu đứng bên cạnh thì nói cùng mẹ rằng = Bà kia ơi, kìa là con bà. Đoạn Ngài phán cùng môn đồ ấy rằng = Kìa là Mẹ con”. Chúa Giesu là con đầu lòng ( Primo Genitus ) còn toàn thể tín hữu cũng được Đức Maria sinh ra trong ơn thánh. Chúng ta cần phải hết lòng tôn sùng Đức Mẹ như Gioan “ Từ giờ đó môn đồ ấy rước bà về nhà mình” ( Ga 19, 25 -27) ./.
Phùng Văn Hóa