Trong chuyến đi công tác ở miền Bắc gần đây, tôi được một cái hẹn đến thăm một vị Linh Mục đàn anh mà tôi ngưỡng mộ từ lâu. Sau tất cả những công việc trong ngày, ngài tiếp tôi và mấy anh em đi chung trong phòng khách của ngài, câu chuyện thân tình kéo dài từ 9g tối đến 1g sáng hôm sau, chuyện quanh chuyện quẩn, chuyện buồn chuyện vui, nhiều khi đã muốn chấm dứt để ngài còn nghỉ ngơi cho công việc ngày hôm sau, nhưng bầu khí quá thân tình nên cứ níu chân chúng tôi.
Tôi với ngài có một mối quan hệ “lằng nhằng”, lằng nhằng vì nó qua nhiều mối dây liên hệ. Trong một dịp gặp ngài ở một lễ hội lớn, tôi đến chào ngài và tự giới thiệu mình, tôi chào ngài vì phép lịch sự và sự tôn kính cần phải có đối với một “bậc trưởng thượng” trong Giáo Hội, bất ngờ ngài bắt tay tôi và nói về một chuyện xa cũ mà tôi không hề ý thức, không hề biết. Ngài nói về cái thuở “hàn vi”, ngài làm thấy giúp xứ ở một Nhà Thờ bé nhỏ vùng thôn quê, khi ấy tôi đến chơi với cha xứ của ngài và một người bạn Linh Mục khác, chúng tôi thơ thẩn với nhau nên có dịp tìm đến nhau để “giao lưu” thơ phú, đêm đó ngài phục vụ chúng tôi một vài món “đưa cay” và một vài chung rượu miền quê. Ngày ấy tôi quên rồi, dĩ nhiên quên ông thầy giúp xứ lặng lẽ ra vào phục vụ các cha, nhưng ông thầy thì đã không quên và hôm nay trong một tư thế khác, ông nhắc lại với những tình cảm thân thương. Tôi xấu hổ nói với ngài “con không dám nhớ và không dám nghĩ”.
Nhưng quí mến và ngưỡng mộ ngài lại đến từ một mối tương quan khác. Tôi có một vị “trưởng thượng” khác là bạn thân từ xa xưa, nhờ người bạn này mà tôi được nghe về ngài với những suy tư, tâm huyết và những nỗ lực xây dựng Hội Thánh, nghe biết về lòng can đảm, quảng đại và kiên vững của ngài, tôi ngưỡng mộ. Buổi gặp gỡ đêm hôm ấy củng cố sự ngưỡng mộ và lý giải về sự dấn thân quảng đại của ngài mà tôi được biết. Con đường tiến chức Linh Mục của ngài gặp gian nan sau tháng tư năm 75, trôi dạt theo nhiều thác ghềnh, ngài kéo dài hơn 17 năm trong chờ đợi Sứ Vụ Thánh, trong 17 năm đó, ngài “vào tù ra khám” nhiều lần, chỉ vì một cái tội danh “hoạt động tôn giáo”, tập hát cho ca đoàn cũng bị bắt, dạy giáo lý cũng bị bắt, thăm Giáo Dân cũng bị bắt… 17 năm vào tù ra khám liên miên, ngài nói “lý lịch ấy làm sao chịu chức được” !
Kinh nghiệm những ngày tù tội, ngài hiểu thân phận con người, ngài hiểu và có kinh nghiệm về con đường “cải tạo”, ngài biết thế nào là sự mong chờ thăm nuôi, thế nào về sự sẻ chia từng miếng bánh gia đình gởi vào, thế nào lá sự dối trá, gian manh, lừa lọc của thế gian, hơn hết, ngài hiểu và kinh nghiệm rất đặc biệt về ơn Chúa, về sự quan phòng của Chúa, và về những thanh luyện Chúa muốn dùng để chuẩn bị sứ vụ cho ngài sau này.
Ngài nói: “Con cầu nguyện nhiều, khấn nhiều, nhưng không thấy thay đổi, hẹn lần hẹn lữa mãi những cái hẹn với Chúa, với Thánh Cả Giuse nhưng vẫn không được, những ngày ngồi tù vẫn triền miên không lối thoát, con nghĩ Chúa không nhận lời. Không xin ra tù nữa, con quay ra xin theo ý Chúa, từ ngày đó con bình an, vui tươi và hạnh phúc, con nhận ra hay là ý Chúa muốn con thi hành đời sứ vụ của con nơi chốn này, con xin vâng”.
Tôi hiểu tại sao ngài hết lòng với sứ vụ hôm nay, tại sao ngài thao thức sự thật, chân lý, tại sao ngài gắn bó với người nghèo, trăn trở với công bằng, yêu chuộng sự thật, tại sao ngài can đảm dấn bước, tại sao ngài dám đánh đổi tất cả vì Lời của Chúa, vì quyền lợi của Giáo Hội.
Bài đọc thứ nhất trong Thánh Lễ tuần thứ hai thường niên, Isaia ý thức mình được tuyển chọn, được nhào nắn trong lòng mẹ, để trở nên Người Tôi Trung và nhất là trở nên ánh sáng chiếu soi muôn dân và mang Ơn Cứu Độ đến tận cùng trái đất. ( x. Is 49, 3 – 6 ), Đức Kitô đã là mẫu mực trong ơn gọi này, chính Ngài là “Đấng gánh lấy tội trần gian”, mang lấy tội lụy đó để truyền ban ơn tha thứ, mang Ơn Cứu Độ đến tận cùng trái đất.
Nếu chúng ta ý thức mình đã được tuyển chọn, nhào nắn trong lòng mẹ, để trở nên ánh sáng cho muôn dân, và để mang Ơn Cứu Độ đến tận cùng trái đất, chúng ta sẽ phải thay đổi cách sống, thay đổi cách suy nghĩ để thuộc về Chúa và thuộc về người nghèo nhiều hơn.
Nhưng gánh lấy tội trần gian thì gian nan lắm, nguyện xin Chúa thương cứu giúp chúng ta.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 19.1.2014