Niềm tin là điều kiện tiên quyết để có thể yêu thương. Có tin mới yêu, không tin không thể yêu. Có người đặt vấn đề như thế này: “Nếu bạn không thể là mặt trời thì cũng đừng là đám mây.”Một ý tưởng đơn giản mà sâu sắc, tích cực.
Niềm tin không chỉ quan trọng trong cuộc sống đời thường mà quan trọng cả trong đời sống tâm linh. Đức tin mạnh mẽ có khả năng biến đổi con người, và cũng nhờ đức tin mà tín nhân được công chính hóa.
Thánh Mark khổ tu cho biết: “Các công việc là điều cần thiết và được Thiên Chúa minh nhiên an định, nhưng chúng ta nên dứt bỏ các công việc không hợp giờ giấc và dành ưu tiên cho việc cầu nguyện, nhất là nên dứt bỏ những công việc đòi hỏi chi tiêu quá đáng hoặc sinh được quá nhiều của cải dư thừa. Ai biết vì Chúa mà tự hạn chế và loại bỏ những của cải dư thừa của họ bao nhiêu, người ấy càng giữ tâm trí khỏi bị xao lãng bấy nhiêu, để dành chỗ cho việc cầu nguyện tinh tuyền và chứng tỏ một niềm tin chân thành nơi Chúa Kitô. Còn ai vì kém đức tin hoặc vì một yếu đuối nào khác mà không làm được điều ấy thì ít nhất cũng hãy thừa nhận thực trạng, tố cáo sự ấu trĩ của mình, và hãy cố sức vươn lên.”
Thuở xưa, ông Giôsuê quy tụ mọi chi tộc Israelở Sikhem, triệu tập cả các kỳ mục Israel, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ hiện diện trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa thì hôm nay anh emCỨ TÙY Ý chọn thần mà thờ, hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi,chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa.” (Gs 24:15)
Chúng ta có quyền tự do vì được Thiên Chúa cho, Ngài cho tùy chọn chứ không ép buộc. Rất thoải mái, nhưng phải khôn ngoan mới có thể sử dụng đúng đắn. Thật ra gọi là tự do nhưng chính sự tự do cũng có giới hạn nhất định của nó. Cái khó là ở chỗ biết “giới hạn” trong khoảng tự do hợp lý nhất.
Nhưngkhông như ông Giôsuê nghĩ, dân vẫn có ý tốt, và họ nói: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ PHỤNG THỜ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.” (Gs 24:16-18)
Ước gì tất cả chúng ta, những người đã được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, trở nên con cái của Thiên Chúa, sẽ biết quan tâm như ông Giô-suêvà dân Israel xưa, để có thể kiên trì giữ vững đức tin cho đến hơi thở cuối cùng. Có lẽ lúc này chúng ta có thể lặp lại câu ca dao Việt Nam: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, thì tôi vẫn vững như kiềng ba chân.” Cũng có thể coi “chiếc kiềng” đó là ba đức đối thần cần thiết:Tin, Cậy, Mến.
Ngày xưa có những lúc nổi lên các bè rối, tà thuyết. Ngày nay không thấy các dạng “chủ nghĩa” tương tự, nhưng vẫn luôn có những “làn sóng” nguy hiểm, bởi vì càng văn minh hiện đại thì người ta càng tinh vi trong cách chối bỏ Thiên Chúa. Từ nghi ngờ đến chối bỏ đức tin không xa bao nhiêu, có thể chỉ như một lằn ranh mong manh.Một “kiểu lạ” nguy hiểm đã có ở Việt Nam là “Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ” do Ahn Sahng Hong (Anh Xang Hồng, Hàn Quốc) lập ra từ năm 1964. Một dạng khác là “Nhóm Trừ Quỷ Bảo Lộc” của chị Têrêsa Nguyễn Thị Thương (TGMĐà Lạt đã phạt vạ). Không hiểu sao mà cả linh mục và tu sĩ cũng bị lôi cuốn vì một phụ nữ ảo giác như vậy. Mê muội hay ngu xuẩn?
Họ đúng là những kẻ hoang tưởng, bởi vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Kn 12:13; Is 43:10-13; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20) tuyệt đối không có thần linh nào khác. Chính Thiên Chúa đã cảnh báo:“Hỡi con người, hãy nói với thủ lãnh của Tia: Chúa Thượng là Đức Chúa phán thế này: Vì ngươi đem lòng tự cao tự đại nên ngươi đã nói: ‘Ta là thần, ta ngự trên ngai các thần, giữa trùng dương.’Ngươi chỉ là người, chứ không phải là thần mà lại dám cho mình ngang hàng với thần thánh.Vì ngươi dám cho mình ngang hàng với thần thánh, nên, này Ta sẽ đưa những người ngoại bang hung dữ nhất trong các dân tộc đến đánh phá ngươi. Chúng sẽ tuốt gươm đối lại sự khôn ngoan tuyệt vời của ngươi, làm cho vẻ huy hoàng của ngươi ra ô trọc. Chúng sẽ xô ngươi xuống hố, và ngươi sẽ chết thê thảm giữa trùng dương.” (Ed 28:2, 6-8)
Thời cuối cùng này, đây đó xuất hiện những kẻ phản-kitô, thế nên phải cảnh giác cao độ và tự nhủ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa.”(Tv 34:2-3a)và vì yêu thương mà nhắn nhủ với người khác: “Xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.” (Tv 34:3b)
Là Đấng giàu lòng thương xót, Thiên Chúa luôn chạnh lòng trắc ẩn với những người hèn mọn, thấp cổ, bé miệng, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.” (Tv 34:18)Thật vậy, “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề,” (Tv 34:19) còn người công chính, “khi gặp nhiều nỗi gian truân, Ngài giúp họ luôn thoát khỏi.” (Tv 34:20) Thiên Chúa như vậy sao bạn lại rời xa? Chỉ có những kẻ ngu xuẩn,mê muội hoặc ảo tưởng mới mưu phản, muốn chống lại Ngài, chối bỏ Ngài, hoặc mạo danh Ngài.
Thiên Chúa yêu thương vô hạn, Ngài có sửa phạt một chút cũng chỉ vì xót thương, muốn người ta trở về mà thôi. Thánh Vịnh gia minh chứng: “Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy. Quân gian ác chết vì tội ác, kẻ ghét người lành chuốc án phạt vào thân. Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ.” (Tv 34:21-23)
Bằng cách này hay cách khác, ai cũng đã từng được Thiên Chúa cứu thoát nhiều lần, kể cả những người chưa chân nhận Ngài,thậm chí đối với cả người vô thần. Chính Ngài đã xác định: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta.”(Ga 10:27) Nghe và sống Lời Chúa là chứng tỏ niềm tin vào Ngài, là sống đạo – chứ không chỉ giữ đạo. Sống đạo thế nào? Tu thân ngay trong gia đình – tự canh tân và hoán cải lẫn nhau.
Thánh Phaolô về việc “gia đình sống đạo” theo tinh thần Kitô giáo giữa đời thường trình thuật là lời nhắn nhủ của: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau.”(Ep 5:21) Tùng phục nhau không phải theo hệ lụy chủ nhân với tôi tớ, mà đơn giản là lắng nghe nhau, vâng lời nhau, yêu thương nhau, và phục vụ nhau.
Trước tiên, Thánh Phaolô nói về hệ lụy phu thê: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình.”(Ep 5:22-28) Rất chi tiết và chí lý, vì vợ chồng tuy hai mà một, họ không còn là hai mà chỉ là một mà thôi. (x. Mt 19:6)
Vừa phân tích vừa dẫn chứng, Thánh Phaolô nói: “Có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh.”(Ep 5:29-32) Và ông kết luận: “Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.”(Ep 5:33) Nói chung, dù là ai cũng phải tôn trọng nhau, đặc biệt là vợ chồng – những người luôn ở bên nhau cả tinh thần và thể lý. Có tôn trọng nhau mới biết yêu thương nhau và phục vụ nhau theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô.
Người bạn thật không chỉ ở bên ta khi ta gặp khó khăn, mà còn dám nói thật mà không sợ ta mất lòng. Đơn giản mà ý nghĩa với thành ngữ của người Anh: “A friendin needis a friendindeed–Khi hoạn nạn mới biết bạn thật.” Thật vậy, hạt sương long lanh nhưng không là hạt ngọc. Những kẻ ba hoa, khoe mẽ, hay hứa, dễ hẹn, đãi bôi,…thì chỉ là rác rưởi, phải tránh cho xa kẻo tự chuốc họa vào thân.
Qua trình thuật Ga 6:61-70,Thánh Gioan ghi lại phần cuối bài diễn từ Chúa Giêsu đã giảng dạy trong hội đường ở Caphácnaum. Sau khi nghe Ngài nói chính Ngài là Bánh Trường Sinh và phải ăn uống Thịt Máu Ngài để được sống dồi dào, lỗ tai của người Do Thái “ngứa” lắm. Thậm chí có nhiều môn đệ của Ngài còn nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”Các môn đệ còn như vậy huống chi người ngoài. Ngài biết rõ các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, nên Ngài bảo họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.” Chúa Giêsu dùng cách nói nghi vấn để xác định, với tính chất mạnh mẽ hơn mức bình thường.
Chúa Giêsu còn thẳng thắn nói: “Trong anh em có những kẻ KHÔNG TIN.”Lời trách của Chúa có dành cho tôi hay không? Mang tiếng là theo Thầy, được Thầy mở lòng trí và được thụ giáo bao điều hay lẽ phải, thế mà lại bị Thầy trách nặng nề như vậy. Sự thật mãi là sự thật, không thể biện hộ, và đừng tưởng mình “tốt lành” hơn người khác.Chúa Giêsu nói sự thật minh nhiên và mặc nhiên–dù đó là điều rất đáng buồn!
Chúa Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài, vì Ngài thấu suốt mọi sự.Rồi Ngài cho biết: “Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Ngài nữa. Họ chịu không nổi vì “choáng”quá, cứ nghe những lời “khó lọt lỗ tai”như thế thì đành “bỏ của chạy lấy người” vậy. Ý Chúa quá mầu nhiệm, chúng ta không thể hiểu thấu.
Chúa hoàn toàn cho mọi người tự do quyết định. Tùy ý riêng. Không ép buộc. Ngài biết có những người mạnh miệng nhưng nhát đảm, chết khiếp trước khi chết thật, thế nên Ngài hỏi thẳng Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”Ôi,Thầy ơi là Thầy, sao hỏi khó vậy? Có lẽ ai cũng ngại trả lời nên ông Simôn Phêrô trả lời ngay: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Một câu xác tín mạnh mẽ, như để “bù” vào một lần ông hồ nghi, suýt chết đuối trên biển, bị Thầy chê kém tin, (Mt 14:25-31) một lần ông dám cản bước Thầy nên bị rủa là Satan, (Mc 8:33)và mấy lần ông chối Thầy trước mặt người khác. (Mt 26:57, 69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Lc 22:54-62; Ga 18:12-18, 25-27)
Chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn đặt vấn đề: “Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!” Ngài muốn nói về Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Ngài.Có lẽ lúc đó nhìn Chúa Giêsu “thấy thương” lắm, hẳn là khuôn mặt Ngài buồn rõ nét nhưng chưa đến lúc tiện nói ra. Thầy buồn thì trò cũng chẳng vui!
Ngày xưa, học giả Tuân Tử (313-235 trước CN, Trung Hoa)đã phân định ba loại người thường gặp trong xã hội: “Người chê ta mà chê đúng, đó là THẦY của ta; người khen ta mà khen đúng, đó là BẠN của ta; còn những kẻ nịnh bợ ta chính là KẺ THÙ của ta.” Thầy –Bạn –Kẻ thù, các “khoảng cách” rất nhỏ, khó nhận ra. Cần phải sáng suốt phân định. Khen hay chê còn tùy, đừng tưởng cứ khen là hay, chê là xấu.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin thêm can đảm và khiêm hạ để con không ngại tiếp thu mọi ý kiến của người khác, dù họ là ai, nhờ đó con có thể hoàn thiện không ngừng.Xin giải thoát con khỏi mọi ảo tưởng và ảo giác, xin ban Thần Khí khôn ngoan và minh mẫn của Ngài ,xin biến con thành khí cụ hữu ích. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU