Với hơn hửa thế kỷ nỗ lực cho sự hiệp nhất để rồi đưa đến kết quả Giáo Hội ngày càng chia rẽ: “ Những chia rẽ phá hủy Giáo Hội, ma quỷ tìm cách tấn công từ gốc rễ của sự hiệp nhất ngay trong việc cử hành Thánh lễ. Đó là thông điệp của ĐTC Phanxico trong Thánh lễ sáng hôm thứ hai vừa rồi tại nguyện đường Thánh Mattha…
…Lấy ý tưởng từ bài đọc thứ nhất của Thánh Phao Lô gửi tín hữu Corinto, ngài quở trách cộng đoàn Corinto về việc cãi cọ nhau, gây chia rẽ của họ. ĐTC quảng diễn: Ma quỷ có hai loại vũ khí rất hiểm độc để hủy diệt Giáo Hội đó là sự chia rẽ và tiền bạc. Và điều này đã xảy ra ngay từ thuở khai mở Giáo hội. Chia rẽ về thần học, về tư tưởng để xâu xé và làm tổn thương Giáo Hội. Ma quỷ đã gieo ganh tỵ, tham vọng, tham lam và những tư tưởng trái chiều để gây chia rẽ. Việc này xảy ra như sau một cuộc chiến tranh. Tất cả mọi sự đều bị phá hủy và ma quỷ hài lòng về điều này. Còn chúng ta trở thành những kẻ ngây thơ, chúng ta trở thành trò chơi của ma quỷ. ĐTC lập lại: Sự chia rẽ là một cuộc chiến bẩn thỉu, nó giống như chủ nghĩa khủng bố. Cuộc chiến của lời ra tiếng vào nơi cộng đoàn. Cuộc chiến của ngôn ngữ giết chết con người” ( Nguồn Web…Gp Bùi Chu – 13/9/2016. Ma quỷ tìm chia rẽ GH từ gốc rễ sự hiệp nhất ).
Công Đồng Vatican II mệnh danh là CĐ Đại Kết với chủ trương là tiến tới sự hiệp nhất giữa các hệ phái Ki Tô Giáo bao gồm Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống và Anh Giáo. Thế nhưng sau hơn nửa thế kỷ tính từ ngày ban hành Sắc lệnh Đại Kết ( U.R ) đến nay chẳng những không hề có bất cứ sự hiệp nhất nào được thực hiện mà ngay trong nội bộ GH Công Giáo như lời ĐTC Phan Xi Cô diễn tả… nó tan hoang chẳng khác nào sau cuộc chiến khủng bố !!!.
Mong muốn và tìm cách để tiến tới hiệp nhất nhưng rồi chỉ đem đến chia rẽ. Điều này khiến chúng ta không thể không đặt lại vấn đề Hiệp Nhất Ki Tô Giáo. Nó có thực sự là sự hiệp nhất mà Đức Ki Tô mong muốn hay không ? “ Con chẳng những vì họ cầu xin thôi đâu, nhưng cũng vì kẻ nhơn lời họ mà tin Con nữa để họ thảy hiệp làm một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Lại để cho họ cũng ở trong chúng ta, hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con” ( Ga 17, 20 -21 ).
Ở đây Chúa Giê Su cầu nguyện sự hiệp nhất cho các Tông Đồ chứ không phải giữa GH Công Giáo Tông Truyền với các giáo phái ly khai. Sở dĩ các Tông Đồ cần có sự hiệp nhất bởi vì chính sự hiệp nhất đó mới có thể khiến thế gian tin rằng Chúa là Đấng đã được Cha sai đến. Tin Chúa được…sai đến cũng có nghĩa là tin Ngài đã mang đến thế gian một sứ mạng cao cả là rao giảng Tin Mừng Nước Trời: “ Vừa rạng ngày Ngài ra đi đến nơi thanh vắng. Có quần chúng kéo đi tìm Ngài theo kịp, muốn giữ Ngài ở lại với họ. Nhưng Ngài nói; Ta còn cần phải rao giảng Nước Thiên Chúa cho các thành thị khác. Vì cốt tại việc đó mà Ta được sai đến” ( Lc 4, 42 -43 ).
Chúa Giê Su khẳng định sứ mạng Ngài đến thế gian là để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Điều đó làm sao có thể phủ nhận ? Thế nhưng sự thực sau hai mươi thế kỷ sứ mạng ấy vẫn chưa được nhìn nhận và vì thế Giáo Hội đã trải qua hết cơn khủng hoảng này đến cơn khủng hoảng khác để rồi cuối cùng phải tìm đến sự hiệp nhất với các giáo phái.
Sự hiệp nhất cũng gọi là Đại Kết thoạt đầu không phải do Giáo Hội Công giáo khởi xướng nhưng là Tin Lành: “ Có thể lấy năm 1910 như khởi điểm của phong trào Đại kết cận đại. Vào năm ấy, một đại hội của các Hội Truyền Giáo Tin Lành ( World Missionary Conference ) được tổ chức tại Edinburh ( Scotland ). Lý do đưa tới việc tổ chức đại hội là thực trạng chua chát của các xứ truyền giáo khi mà các giáo đoàn trẻ chất vấn những nhóm thừa sai: Tại sao các ông đều rao giảng một đức Ki Tô như nhau mà các ông lại chia rẽ thành bao nhiêu là phe nhóm. Nào là Methodist, nào là Luteranist, nào là Episcopalist ? Tại sao các ông vừa mang cho chúng tôi Tin mừng của Đức Ki Tô mà vừa mang theo sự phân hóa từ Âu Mỹ sang đây làm gì ? Chính vì ý thức rằng sự chia rẽ giữa các Ki Tô Hữu là một chướng ngại cho việc truyền giáo cho nên các Hội truyền Giáo mới quyết định nhóm họp lại để tìm cách thức giải quyết. Cuộc gặp gỡ giữa các Hội Truyền giáo dần dần đã đưa tới sự gặp gỡ các Giáo Hội dưới danh nghĩa của Hội Đồng Quốc Tế Truyền Giáo ( International Missionary Council ) ra đời năm 1921” ( Nguồn TTHV Đa minh – Tấn Anh – Thần Học Về Đại Kết ).
Sở dĩ Tin Lành phân rã thành các giáo phái Methodist, Luteranist, Episcopatist v.v.. không phải là họ cùng rao giảng một Đức Ki Tô. Trái lại đó chỉ là một thứ quan niệm nào đó về Đức Ki Tô chứ không phải Đức Ki Tô như chính Ngài Là. Mặt khác cũng không phải họ rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô mà cũng chỉ là thứ …Tin Mừng của họ chẳng có liên hệ gì đến Tin Mừng về Nước Trời mầu nhiệm nội tại ( Lc 17, 20 -21 ).
Bởi nguyên nhân nào đã khiến các hệ phái Tin Lành nói riêng và thần học Ki Tô giáo nói chung không rao giảng Đức Ki Tô đúng thật như Ngài Là ? Bởi vì Đức Ki Tô đã bị… đồng hóa với Thiên Chúa Tạo Hóa.
Tại đại hội Newdheli năm 1961, toàn thể các giáo phái Tin Lành đã ra tuyên ngôn “ Hội Đồng Thế Giới các Giáo Hội là một hội nghị của các giáo hội tuyên xưng Đức Giê Su Ki Tô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế theo Kinh Thánh. Do đó họ nỗ lực thể hiện ơn gọi chung hầu làm vinh danh Thiên Chúa duy nhất Cha, Con và Thánh Thần” ( Nguồn TTHV Đa Minh -23/9/2018 đã dẫn ).
Điều mà các giáo phái Tin Lành ra tuyên bố chung nhìn nhận Đức Giê Su Ki Tô chính là Thiên Chúa Tạo Hóa thì cũng không có gì khác với thần học Công Giáo khi cho rằng Chúa Giê Su là Thiên Chúa Nhập Thể làm người vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật: “ Thiên Chúa là Tạo Hóa. Con người là tạo vật. Thiên Chúa làm người có nghĩa Tạo Hóa trở nên tạo vật” ( Đgm Phao Lô Bùi Văn Đọc – Đức Ki Tô, hôm qua, hôm nay và mãi mãi ).
Với quan niệm Đức Ki Tô cũng chính là Đấng Tạo Hóa làm người đã đặt ra một vấn đề hết sức nghiêm trọng đó là đã phủ nhận mạc khải của Đức Ki Tô về Thiên Chúa Cha: “ Cha Ta đã giao mọi sự cho Ta. Ngoài Cha không ai biết Con. Ngoài Con và người nào Con muốn mạc khải cũng không ai biết Cha” ( Lc 10, 22 ).
Mạc khải có nghĩa là vén tấm màn lên để chỉ cho thấy điều còn ẩn giấu ở bên trong. Đức Ki Tô mạc khải về Chúa Cha tức là Ngài…chỉ cho chúng ta được biết về Đấng Thiên Chúa Ẩn Giấu ( Deus Abconsditus ) chưa ai từng thấy biết ( Ga 1, 18 ).
Đức Ki Tô…biết về Cha thì cái biết ấy không phải là của lý trí phân biệt nhưng là cái biết của Thực Tại vô phân biệt như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Thực Tại Đấng Cha ấy cũng là một không khác với Nước Trời mầu nhiệm. Đức Ki Tô rao giảng Tin Mừng Nước Trời đó là Ngài loan báo một cái Tin mà nếu ai…nghe được thì sẽ phát khởi được lòng vui mừng lớn lao.
Để…nghe được Tin Mừng của Đức Ki Tô thì nhất thiết cần hai điều kiện. Một là sự sám hối, ăn năn và hai là lòng tin: “ Thời đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần. Các ngươi hãy ăn năn, sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ).
Nước Thiên Chúa đã gần, chỉ cần chúng ta có lòng sám hối ăn năn chừa cải tội lỗi mình và tin vào Tin Mừng của Chúa thì sẽ gặp được Nước Trời ngay ở nơi mình. Lòng tin và sự ăn năn, sám hối cần song hành, bồi bổ cho nhau. Không thể có lòng tin nếu không thực tâm sám hối, ăn năn. Ngược lại càng ăn năn, sám hối bao nhiêu thì lòng tin càng mạnh mẽ bấy nhiêu.
Đức Ki Tô rao giảng Tin Mừng và đòi hỏi con người cần có lòng tin và chỉ lòng tin ấy mới được gọi là lòng tin chân thật ( Chánh Tín ). Mặt khác tin vào Tin Mừng của Đức Ki Tô cũng là tin Đấng Cha nội tại ở nơi mỗi người: “ Đạo ở gần ngươi, ở trong miệng ngươi và ở trong lòng ngươi tức là Đạo Đức Tin mà chúng tôi rao giảng đây. Vậy nếu miệng ngươi nhìn nhận Chúa Giê Su là Cứu Chúa và lòng ngươi tin ĐCT đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu. Vì bởi lấy lòng tin mà được nên công chính và bởi lấy miệng thừa nhận mà được cứu rỗi” ( Rm 10, 8 -10 ).
` “ ĐẠO” ở đây ám chỉ cho Thực Tại bất sinh bất diệt, không thể được nhận biết bằng suy tư, lý luận mà chỉ có thể bằng đức tin thôi. Thế nhưng đức tin ấy làm sao có thể thể hiện nếu không có Giáo Hội Tông Truyền do Đức Ki Tô thiết lập ?.
Sau khi Simon Phê Rô tuyên xưng đức tin. Chúa nói với ông: “ Si Mon con Giô Na, ngươi thật có phúc đó vì chẳng phải thịt và huyết bày tỏ điều ấy cho ngươi đâu bèn là Cha Ta ở trên trời vậy. Còn Ta lại bảo ngươi rằng ngươi là Phê Rô, Ta sẽ lập Hội Thánh Ta trên vầng đá này, cửa Hỏa Ngục cũng chẳng thắng được nó. Ta sẽ giao chìa khóa Nước Trời cho ngươi. Hễ điều gì ngươi cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc. Hễ điều gì ngươi cởi mở dưới đất thì trên trời cũng cởi mở” ( Mt 16, 17 -20 ).
Qua trình thuật Kinh Thánh này cho thấy hai điều không ai có thể phủ nhận. Một là Đức Ki Tô có thiết lập Hội Thánh. Hai là đặt Hội Thánh dưới quyền lãnh đạo của Thánh Phao Lô, vị giáo hoàng tiên khởi với quyền bính tối thượng.
Chúa chỉ lập có một Hội Thánh, bởi đó lời tuyên xưng đức tin “ Tôi tin HT duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền” không những là rất chính đáng mà còn cần thiết. Tại sao lại cần thiết ? Bởi vì chính sự tuyên xưng ấy mới gìn giữ tín hữu chúng ta trong chánh đạo. Từ bao thế kỷ nay Giáo Hội vẫn nhận mình là Đạo Thật và ngoài …đạo ấy ra, không thể có Ơn Cứu Độ ( Extra Ecclesiam Nulla Salus ).
Đạo là con đường thực hiện tâm linh, bởi đó cho nên, đi trên đường đạo thì phải có lòng tin. Trái lại không có lòng tin thì không bao giờ có thể đến được tới đích có nghĩa nhận được Ơn Cứu Độ của Chúa.
Xét ra tất cả những giáo phái ly khai khỏi Giáo Hội, bị vạ tuyệt thông là vì đã đi…lạc khỏi con đường thật ( Chánh Đạo ) là Hội Thánh Tông Truyền. Như vậy tính chất lạc đạo của các giáo phái ấy chính là lạc khỏi Con Đường Đức Tin.
Chính Thống giáo lạc khỏi Con Đường Đức Tin bởi vì họ đã không chấp nhận quyền bính tối cao của đức giáo hoàng và như thế là đã phủ nhận việc Đức Ki Tô trao quyền cho Thánh Phê Rô.
Tin Lành xa lạc bởi vì họ đã bác bỏ các Tín Điều của Đạo Công giáo về Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Truyền Chức Thánh …cùng với các Tín Điều về Đức Mẹ.
Các giáo phái không có cùng một đức tin với người Công giáo thì không bao giờ có thể đi đến Hiệp Nhất, bởi họ không có cùng một ơn gọi: “ Chỉ có một Thân Thể, một Thánh Linh. Cũng như trong sự kêu gọi mình mà anh em đã được gọi đến một hy vọng, một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một ĐCT là Cha mọi người, suốt qua mọi người và ở trong mọi người” ( Eph 4, 4 -6 ).
Chỉ có một Thần Khí đó là Thân mầu nhiệm Chúa Ki Tô và trong Thân mầu nhiệm ấy các chi thể hiệp nhất với nhau để đi đến sự kết hợp với Đấng Cha ở nơi mình. Thiên Chúa đích thật là Cha của muôn loài, từ nơi Ngài mà xuất sinh. Thế nhưng để có thể nhận ra chân lý cao cả ấy thì không thể không qua Đấng Trung Gian là Đức Ki Tô: “ Trong Ngài, chúng ta nhơn đức tin đến Ngài được vững lòng dạn dĩ mà vào cùng ĐCT” ( Eph 3, 12 ).
Tin vào Đức Ki Tô để Ngài đưa dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. Tuy nhiên để có được đức tin nơi Chúa Ki Tô thì chúng ta không thể …bỏ qua vai trò vô cùng quan trọng của Đức Maria. Phải chăng cũng vì không nhận ra vai trò ấy nên mới dấn thân vào con đường Hiệp Nhất với các giáo phái không lối thoát ? “ Đức Trinh Nữ quyền năng đạp giập đầu con rắn. Đối với những tâm hồn liên kết với Mẹ, Chúa ban sức mạnh cho họ để chiến thắng tội lỗi. Chúng ta phải tin điều này với một niềm tin không lay chuyển và một lòng cậy trông vững vàng…
…Thiên Chúa muốn ban cho chúng con mọi sự. Nhưng bây giờ tùy chúng con và cũng tùy ở nơi Mẹ nữa. Lạy Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã lãnh nhận, gìn giữ và chuyển giao mọi sự cho chúng con. Tất cả đều tùy mối liên kết của loài người với Đấng mà Thiên Chúa đã ủy thác mọi sự” ( A. Graty. Sách Tháng Đức mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội – TB chương 5 – Sl 30 ).
Vai trò hết sức quan trọng của Đức Mẹ đã được tiên báo ngay từ thuở Sáng Thế dưới tước hiệu Người Nữ Đạp Giập Đầu rắn Sa Tan ( St 3, 15 ). Lời tiên báo ấy cũng chỉ ra rằng để có thể nhận lãnh Ơn Cứu Độ của Đức Ki Tô, hết thảy mọi tín hữu đều phải trải qua cuộc chiến cam go với Sa Tan dưới quyền lãnh đạo của Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội Trung Gian Các Ơn.
Cuộc chiến ấy quả thật đã đến hồi kết thúc: “ Về Ngày Thạnh Nộ lớn của Ngài đã đến. Ai có thể đứng vững nổi” ( Kh 6, 17 ). Sẽ không thể đứng vững nếu không còn có đức tin. Trái lại với những ai còn có đức tin vào Ơn Cứu Rỗi thì sẽ được nghe những lời êm ái của Chúa trong Ngày Phán Xét: “ Bấy giờ vua sẽ phán cùng những kẻ bên hữu rằng: Hỡi các ngươi là những kẻ được Cha Ta chúc phúc: Hãy đến mà nhận lãnh nước đã sắm sẵn cho các ngươi từ buổi Sáng Thế” ( Mt 25, 34 )./.
Phùng Văn Hóa