Đức Ki Tô tiên báo Giáo Hội sẽ mất đức tin trong Ngày Chúa đến “ Dầu vậy khi Con Người đến há tìm được đức tin trên mặt đất này chăng ?” ( Lc 18, 8 ). Lời tiên báo của Chúa nay đã ứng nghiệm. Giáo Hội đang rơi vào tình trạng khủng hoảng đức tin trầm trọng và dù với biết bao nỗ lực nhưng vẫn không sao thoát khỏi.
Đức hồng y Gerhard Muller nguyên tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin từ năm 2012 đến 2017 mới đây đã căn cứ vào Sách Giáo Lý Công Giáo để đưa ra một Bản Tuyên Ngôn Đức Tin trong đó có những xác tín về Thiên Chúa Ba Ngôi về Giáo Hội về Luật Luân Lý về Cuộc Sống Vĩnh Cửu.
Riêng về việc Tuyên Xưng Chúa Ba Ngôi ngài nói: “ Tuyệt đỉnh đức tin của tất cả Ki Tô Hữu được tìm thấy trong lời tuyên xưng Chúa Ba Ngôi. Chúng ta đã trở thành môn đệ Chúa Giê Su, con cái và bạn bè của Thiên Chúa qua Phép Rửa Tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Sự phân biệt của Ba Ngôi trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa ( Sách GL 254 ) đánh dấu một sự khác biệt cơ bản trong niềm tin vào Thiên Chúa và hình ảnh con người so với các tôn giáo khác. Các tôn giáo không đồng ý với nhau chính là về niềm tin này vào Chúa Giê Su Ki Tô. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật được thụ thai bởi CTT và được sinh ra bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria. Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể: Con Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất của thế gian ( Sgl 676 ) ( Nguồn Vietcatholic News – 12/2/2019 – Tuyên Ngôn Đức Tin – ĐHY Gerhard Muller ).
Chẳng những các tôn giáo mà ngay đến cả thần học cũng chưa bao giờ đồng ý với nhau về quan điểm Chúa Giê Su vừa là Thiên Chúa thật vừa là …người thật. Mặt khác cũng chính vì sự bất đồng đó mà đã gây nên các cuộc khủng hoảng đức tin liên tiếp trong Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ nay.
Có thể nói nguyên nhân đưa đến khủng hoảng tất cả là do các trường phái thần học đã không thể nhất trí được với nhau về mối liên hệ giữa Chúa Giê Su và…Đấng Tạo Hóa:
Phái Dưỡng Tử Thuyết ( Adoptianisme ) cho rằng Thiên Chúa Duy Nhất không có con. Nhưng đã chọn một con người và đã biến đổi con người ấy trở nên thần linh trong Phép Rửa ở sông Gioc Đan.
Phái Ảo Thân Thuyết ( Docetisme )không chấp nhận nhân tính đích thực của Chúa Giê Su. Họ cho rằng thân xác của Ngài là loại thân xác thiêng liêng chỉ có vẻ bên ngoài là thân xác giống như thiên thần và vì vậy Ngài không thể bị đau đớn.
Phái Nhất Chủ Thuyết ( Monarchianisme ) không tin Ba Ngôi Thiên Chúa và triệt để bênh vực độc thần giáo, không chấp nhận một ngôi vị Thiên Chúa riêng biệt nơi Đức Giê Su.
Phái Ario ( Năm 320 ) cho rằng chỉ một mình Chúa Cha là không được sinh ra. Còn Chúa Con là Đấng được tạo thành bởi hư vô.
Phái Appolinaire cho rằng Ngôi Lời đảm nhận một bản tính nhân loại không có linh hồn. Đức Ki Tô là Ngôi Lời Thần Linh nhập thể nghĩa là ở trong thân xác con người” ( Logos Ensarkos – Verbe Incarne’ ).
Sự bất đồng giữa các trường phái thần học tất nhiên đưa đến khủng khoảng đức tin trong toàn Giáo Hội. Vì chưng một khi thần học vốn vẫn mệnh danh là khoa học hiểu biết Thiên Chúa mà lại có sự bất đồng sâu xa như vậy thì làm sao chúng ta có thể tin nơi sự hiện hữu của Ngài ?
Để có thể tin sự hiện hữu của Thiên Chúa đúng như Ngài Là ( Ego sum qui sum ) chúng ta nhất thiết cần trở về với Tin Mừng…của Đức Ki Tô. Lý do cần nhấn mạnh Tin Mừng…của Đức Ki Tô bởi trong thực tế từ bao lâu nay Giáo Hội vẫn rao giảng một thứ Tin Mừng … khác chứ không phải Tin Mừng … của Đức Ki Tô !!!
Ngay từ thuở sơ khai Giáo Hội, Thánh Phao Lô đã lên tiếng cảnh cáo về thứ Tin Mừng … khác này: “ Tôi lấy làm lạ cho anh em sao lại vội lìa khỏi Đấng đã kêu gọi anh em bởi ân sủng của Đức Ki Tô để mà theo Tin Mừng khác. Nhưng không có Tin Mừng nào khác đâu. Chẳng qua là có mấy kẻ quấy rối anh em muốn sửa đổi Tin Mừng của Đức Ki Tô đó thôi. Nhưng dẫu chúng tôi hoặc thiên sứ trên trời giảng cho anh em một Tin Mừng nào khác với Tin Mừng mà chúng tôi đã rao giảng cho anh em thì người ấy đáng bị nguyền rủa” ( Gal 1, 6 -8 ).
Đức Ki Tô chỉ rao giảng có một Tin Mừng và đó là Tin Mừng về Nước Trời nội tại “ Người Pharisieu hỏi Chúa Giê Su về Nước ĐCT chừng nào đến thì Ngài đáp: Nước ĐCT không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng sẽ không nói được: Đây này hay đó kia vì này Nước ĐCT ở trong các ngươi” ( Lc 17, 20 -21 ).
Không thể nói “ Đây này hay đó kia” bởi vì Nước Trời mà Đức Ki Tô rao giảng là một Thực Tại mầu nhiệm vượt thoát khỏi mọi thứ ngôn ngữ diễn tả cũng như suy tư lý luận. Thục Tại ấy …tương đồng với ĐẠO của minh triết Đông phương “ Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả Danh phi thường Danh” ( Đạo mà có thể gọi ( tên ) thì đó không phải Đạo thường. Danh mà có thể nói ra được thì đó không phải Danh thường – Lão Tử ĐĐK chương một ).
Chữ “ Thường” đây nghĩa là thường hằng bất biến. Cái ĐẠO thường hằng bất biến ấy tùy nơi tùy lúc Đức Ki Tô gọi là Nước Trời là Đấng Cha là Sự Sống Đời Đời. Lắng nghe và trở về với Thực Tại ấy chúng ta sẽ có được Sự Sống Đời Đời “ Còn sự sống đời đời là nhận biết Cha tức Chân Thần Duy Nhất cùng Giê Su KI Tô mà Cha đã sai đến” ( Ga 17, 3 ).
Chúa Giê Su luôn nhận mình là Đấng được Cha sai đến ( Thiên Sai ). Điều ấy nói lên một cách rõ ràng rằng Ngài không phải là Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa vẫn gọi là Ngôi Lời ( Logos ). Nguyên do đưa đến việc thần học dịch Tin Mừng Thánh Gioan “ Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” ( Ga 1, 1 ) là do ảnh hưởng của triết Hy Lạp về Logos hiểu như một thứ Lý Trí phổ quát.
Thật sự thì đây không chỉ là một cách …Dịch nhưng nó đã chuyên chở một thứ triết học sai lầm là triết Duy Lý Hy Lạp. Chính cái thứ triết ấy đã gây nên cuộc khủng hoảng đức tin vô cùng sâu sắc cho Giáo Hội mà không hề hay biết.
Đức tin là cánh cửa mở vào ĐẠO cũng chính là niềm hy vọng của Đạo Công Giáo chúng ta “ Vả đức tin là thực thể của điều mình hy vọng, bằng cớ của điều mình chưa thấy. Nhờ đó mà người xưa được chứng tốt. Bởi đức tin chúng ta hiểu rằng các thế giới được dựng nên bởi Lời của ĐCT đến nỗi vật thấy được chẳng phải từ vật hiển nhiên mà ra” ( Dt 11, 1 -3 ).
Vật thấy được ở đây tức những “ Vật” mà con người có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm…bằng giác quan. Những cái gọi là “ Vật” ấy đều không…thật có chỉ là do duyên giả hợp mà có. Nếu tất cả là do duyên giả hợp mà có thì hễ còn duyên thì…còn hết duyên thì nói là…mất. Con người thực chất cũng là một thứ…duyên giả hợp của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Thế nên chắc chắn cũng có ngày phải chết tức các duyên giả hợp đã đến ngày tan rã.
Tất cả trời đất, vũ trụ trong đó gồm cả con người đều do giả hợp mà thành ra…có.Thế nhưng con người vì vô minh nên đã chấp lấy làm thật để rồi ra sức bám níu thành ra phải sống triền miên trong đau khổ. Đức Ki Tô vì đã thấu triệt được nỗi khổ vì việc chấp trước ấy thế nên Ngài đã truyền dạy đạo lý Bỏ Mình có nghĩa bỏ đi những cái chấp “ Ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình hàng ngày vác thập giá mình mà theo. Vì hễ ai muốn cứu mạng sống mình thì phải mất. Còn hễ ai vì cớ Ta mà mất mạng sống mình thì được cứu. Vì chưng được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì ?” ( Lc 9, 23 -25 ).
Bỏ mình tức bỏ đi những …cái chấp về tài sản, danh vọng, sự nghiệp cũng như về thân mạng là điều rất khó cần có Ơn Chúa thật nhiều mới được. Ơn Chúa ấy cần thiết nhất chính là Ơn Đức Tin. Thiếu hoặc không có đức tin thì mọi việc làm dù trước mắt thế gian có danh giá lớn lao đến đâu đối với Chúa cũng là vô ích. Thế nhưng “ Đức tin tuy khởi đầu mọi sự nhưng lại không hoàn thành chi hết mà phải được hoàn mãn trong Đức Mến” ( Gal 5, 6 ).
Hoàn mãn trong Đức Mến chính là ở chỗ nó khiến cho ta có được sự nhận biết Thiên Chúa Đấng ở nơi mình “ Chẳng có ai thấy ĐCT bao giờ nhưng nếu chúng ta có lòng thương yêu lẫn nhau thì ĐCT ở trong chúng ta và Tình Thương Yêu Ngài được trọn vẹn trong chúng ta” ( 1Ga 4, 12 ).
Phùng Văn Hóa