Có một thực tế mà không ai có thể phủ nhận đó là hiện nay giới trí thức Tây phương đang tìm đến với Phật giáo – Điều này đã được ký giả người ý Vittorio Messori nêu lên trong cuộc phỏng vấn với Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II “Như Đức Thánh Cha đã biết hình như giáo lý giải thoát của Phật giáo đang lôi cuốn một số lớn người Tây Phương như để thay thế cho Kitô giáo hay như một thứ bổ túc ít ra là về những gì liên quan tới kỹ thuật tu đức và thần bí” (Bước Vào Hy Vọng – Câu hỏi số 14).
Với câu hỏi đặt ra như thế ta thấy có hai điểm cần lưu ý đó là một – giới trí thức Tây phương hiện nay sẵn lòng thay thế Kitô giáo bằng Phật giáo vì cho rằng chỉ ở đó mới có giáo lý giải thoát và hai lại có những người không bỏ nhưng chỉ muốn dùng giáo lý Phật giáo như là một thứ bổ túc cho phương pháp tu đức của Kitô giáo. Đối với những ai đã muốn bỏ đạo thì thiết nghĩ cũng chẳng còn gì để nói – Tuy nhiên với những ai chỉ muốn sử dụng giáo lý Phật giáo như một thứ bổ túc kỹ thuật thì đây chính là phạm vi mà thiên luận này muốn bàn tới.
Nền “tu đức” Kitô giáo có cần phải “bổ túc” hay không? Câu trả lời là rất cần và hơn thế có thể nói nếu không bổ túc kịp thời thì nền tu đức có thể sớm bị tiêu ma… “Kể từ giữa thập niên 60 đã có nhiều bài viết về chuyện gia tăng khủng hoảng đời tu. Trong cuốn đời tu hết rồi (The end of religious life 1983) R. Faricy cho rằng thời bây giờ là thế hệ đời tu sau cùng” (Tạp chí Thần học số 4 tháng 4/96).
Khủng hoảng đời tu tuy chỉ là một khía cạnh trong cơn khủng hoảng toàn diện tuy thế nhưng nó lại mang tính quyết định – Bởi không tu nên mới khủng hoảng. Trái lại có tu sẽ hết khủng hoảng – Đức cố Hồng y F.X. Nguyễn Văn Thuận có lần đã đặt câu hỏi và tự trả lời thế này “Tại sao Hội Thánh khủng hoảng? Vì đã hạ giá cầu nguyện” (ĐHV 134).
Tu tức là cầu nguyện – cầu nguyện cũng tức là tu – một tu sĩ mà không có cầu nguyện thì đâu thể gọi là tu? Thánh Gioan Vianney đã nói lên tính cách quan trọng của cầu nguyện bằng một ví von hết sức ấn tượng thế này “Người không cầu nguyện sẽ giống như loài gà – vừa cất cánh bay là đã rơi xuống đất”. Một mặt cầu nguyện đóng vai trò quyết định trong việc tu như thế – Mặt khác Giáo hội lại đang khủng hoảng cầu nguyện – Chính bởi đó mà ta thấy khoảng mấy chục năm gần đây cụ thể từ sau Công đồng Vatican 2 đã có không ít nỗ lực muốn tìm kiếm cho ra một phương pháp hữu hiệu hầu giúp cho việc cầu nguyện đạt kết quả.
Nỗ lực ấy rất ư đa dạng và nói chung tất cả đều mang dáng dấp hội nhập vào với văn hóa Đông phương – cách riêng là Phật giáo – Đã có những cuốn sách được biên khảo hoặc dịch chẳng hạn “Nguyện ngắm Thiền và kinh nguyện Kitô giáo (Lm. An Sơn Vị) “Thần học thiêng liêng” (Lm. Hoành Sơn). “Con đường chiêm niệm” của Lm. J. Chu Công OCSO. “Từ linh đạo Kitô giáo đến các linh đạo Đông phương” của Lý Minh Tuấn. Linh đạo PG dưới cái nhìn của một Kito hữu của Nguyễn Chính Kết. “Chiêm niệm Kitô giáo bằng phương pháp Yoga” (Christian meditation through yoga – của Fr Gilbert Carlo SVĐ). Sự sống còn theo Lý Thiền của đức hồng y G.B Phạm Minh Mẫn. “Huyền học đạo Phật và Thiên Chúa của Suzuki”… Cùng với khá nhiều những ấn phẩm hoặc bài báo đăng rải rác trong các tạp chí thời sự thần học và hợp tuyển thần học.
Ngoài những tu sĩ linh mục được bề trên cho phép đến tập tu tại các Thiền viện còn có các giáo sư đã được mời đến các đan viện, các nhà dòng nam nữ để giảng dạy về Triết Đông và Thiền.
Những nỗ lực ấy rút cục có đem lại kết quả nghĩa là có giúp cho việc cầu nguyện được cải thiện chăng? Câu trả lời rất tiếc là không và chẳng những chẳng kết quả gì lại còn khiến cho việc cầu nguyện ngày càng thêm bị “hạ giá” để trở thành một thứ thần học sặc mùi suy lý hoặc tệ hơn, một thứ lý thuyết xã hội đầy tính dung tục.
Nguyên nhân thất bại ấy là gì? Có hai nguyên nhân một là do đã lầm Thiền với Triết học – Hai là không nhận ra sự khác biệt giữa các thứ Thiền ngoại đạo với Thiền Phật giáo và đi sâu hơn nữa là giữa Tiểu thừa thiền và Đại thừa thiền – giữa Thiền tông và Tịnh độ tông. Chính bởi không nhận ra những khác biệt ấy mà người ta đã hoặc cho rằng Thiền chẳng dính dáng gì tới cầu nguyện hoặc đã ngang nhiên biến cầu nguyện thành suy niệm. Kinh gì cũng có thể đem ra để suy. Một kinh Kính mừng suy ra thành cả một cuốn sách – Kinh Tám mối phúc thật có người (J. Dupont OSB) suy thành 1.558 trang sách kinh khủng thật!
Cho Thiền không dính chi tới cầu nguyện thì biết lấy chi để giải quyết khủng hoảng do hạ giá cầu nguyện gây nên? Còn lầm thiền với triết học thì lại cứ đua nhau suy niệm. Suy riết rồi cũng chán vì chẳng thấy Chúa đâu, vậy là quay ra tục hóa để rồi bỏ hẳn cầu nguyện, đưa đến bỏ đạo rối đạo chẳng mấy chốc.
Giải quyết khủng hoảng cũng giống như việc chữa bệnh, điều tiên quyết là cần phải chẩn mạch đúng để tìm cho ra nguyên nhân. Chỉ khi nào xác định được đúng nguyên nhân thì việc chữa trị mới mong kết quả. Ngược lại tiền mất tật mang chỉ khiến con bệnh thêm trầm trọng – Về nguyên nhân cơn khủng hoảng của Giáo hội như đã biết là do đã hạ giá cầu nguyện nhưng đó mới chỉ là một thứ nguyên nhân gần hay nói đúng hơn nó còn thuộc hiện tượng chứ chưa phải bản chất. Hạ giá cầu nguyện thuộc hiện tượng tức cái đã xảy ra rồi, thành hình ra đó rồi, cái đó chính là việc suy niệm một thứ phó sản của Thần học duy lý.
Muốn tìm cho ra nguyên nhân sâu xa, cái làm nên bản chất của cơn khủng hoảng nhất thiết cần phải tìm ra nguyên nhân của nguyên nhân tức bởi đâu phát sinh việc suy niệm. Nguyên nhân đưa đến việc suy niệm chính là do ảnh hưởng của triết thần học duy lý. Triết và cầu nguyện đi theo hai hướng hoàn toàn khác biệt . Triết học hướng đến phân tích chia chẻ tức nhị nguyên, còn cầu nguyện đòi hỏi sự hiệp nhất kết hợp tức phi nhị nguyên. Để có thể thể nhập vào con đường phi nhị nguyên ấy duy nhất chỉ có con đường Thiền.
Nói đến Thiền không ít người lầm tưởng cho đó là sản phẩm độc quyền của Phật giáo. Thế nhưng nếu ta hiểu Thiền là cái nhu cầu thâm sâu của con người muốn trở về với tâm thái tĩnh lặng an nghỉ ở nơi mình thì nó đã có mặt từ thuở xa xưa đồng thời cũng chẳng dành riêng cho bất kỳ tôn giáo hay thuộc phương trời nào. Mặc dầu Thiền là cái nhu cầu tự nhiên thế nhưng con đường trở về thật quá ư gập ghềnh khúc khuỷu cùng với biết bao nhiêu là đường ngang lối dọc.
Vào thuở sơ khai do bởi vô minh che lấp bản tính thế nên con người đã trải qua không biết bao ngàn năm sống cái đời man dã, chịu sự chi phối nặng nề của dục vọng si mê tham tàn giết hại lẫn nhau để mà tồn tại. Dần dà cũng chính do cuộc tồn sinh khốc liệt ấy thúc đẩy mà tri thức con người đã được nảy nở.
Đứng trước thiên nhiên hùng vĩ, mặt trời huy hoàng chói lọi. Trăng sao tinh tú nhấp nháy bí hiểm trong khoảng không mịt mùng. Rồi nào núi non trùng điệp, nào biển khơi bao la, con người vừa thấy mình nhỏ nhoi vô nghĩa nhưng đồng thời lại cũng thấy trong lòng nổi lên cái khát vọng khôn nguôi muốn tìm biết đến tận căn nguồn vạn vật. Như vậy triết lý là khát vọng tìm biết về căn nguyên bản thể vạn vật và chính khát vọng ấy đã làm nên cơ sở của triết học. Thế nhưng cần nhận định triết học không phải là triết lý. Nếu triết lý là cái khát vọng muốn tìm biết căn nguyên thì triết học lại tìm cách giải nghĩa về căn nguyên ấy.
Giải nghĩa về căn nguyên vũ trụ thế này thế khác là công việc bấy lâu của triết học cả Tây lẫn Đông. Chính là do nơi sự giải nghĩa ấy mà đã khiến cho sự khác biệt giữa triết học và Thiền mang tính căn để co nghĩà không thể dung hòa.
Sở dĩ sự khác biệt ấy không thể dung hòa là bởi triết học đi theo con đường tri thức còn Thiền trái lại chủ trương giải trừ tri thức. Mặt khác để giải nghĩa thì phải khẳng định mà khẳng định cũng tức là chấp, một việc theo hướng ngược hẳn con đường phá chấp của Thiền tông.
Sự khác biệt giữa triết học và Thiền như vậy là đã rõ nhưng sự khác biệt ấy ở mỗi nền triết học lại có những hình thức và mức độ khác nhau. Sau đây ta lần lượt bàn đến cả hai nền triết học Tây và Đông cùng sự khác biệt của nó với Thiền.
Phùng Văn Hóa
( Trích Lời Nói Đầu cuốn Thiền Và Cầu Nguyện – NXB Phương Đông – 2011 )