“Thiết tha, say sưa êm đềm,
Tình yêu rực rỡ, xoá tan hết ưu phiền,
Ngất ngây, bên nhau mơ màng
Tình yêu đẹp mãi, nếu ta đừng chia xa…”
(Nhạc gốc: Love is Blue – Lời Việt: Tình Yêu Mờ Khuất)
(1Cr 10: 16-17)
Tình Yêu mờ khuất? Có thật thế không? Hát thì hát như thế cho vui, chứ làm sao tin đó là sự thật được! Tin nhiều hơn, có lẽ phải tin vào những chuyện vẫn được kể như truyện bên dưới cũng chất phác, hiền hoà, rất dễ tin như sau:
“Có người đàn bà nọ hôm nao nướng bánh mì cho gia đình cũng đều làm dư ra một cái để cho người nghèo đói đến lấy ăn. Như thường lệ, bà để ổ bánh mì dư trên thành cửa sổ ở bên ngoài để người nghèo nào đó đi ngang qua sẽ lấy đi. Mỗi ngày, có anh lưng gù đến lấy ổ bánh mì đem đi. Nhưng thay vì nói cám ơn, ông vừa đi vừa lẩm bẩm những lời sau đây:
-Việc xấu người làm sẽ ở lại với người; việc tốt người làm cũng sẽ trở lại với người!
Điều này vẫn diễn ra, ngày này qua tháng nọ. Cứ thế mỗi ngày, anh lưng gù vẫn tới lấy bánh để ăn cho đỡ đói bụng, thế mà miệng vẫn cứ lẩm bẩm cùng một câu, như sau:
-Việc xấu người làm sẽ ở lại với người, việc tốt người làm cũng sẽ trở lại với người!
Bà chủ làm bánh kia cảm thấy khá bực. Bà thầm nghĩ: “Đã không có một lời cám ơn thì thôi, nhưng tại sao anh lưng gù này ngày nào cũng đến ăn bánh rồi còn lải nhải mãi một giai điệu khó chịu ấy! Hẳn là hắn ta muốn ám chỉ điều gì đây!”
Một hôm, không cầm nổi sự tức giận của mình được nữa, bà dự tính lần này cho anh lưng gù “đi Tây” cho khuất mắt. Bà tự nhủ: “Ta sẽ làm cho nhà ngươi biến khỏi nơi đây và sẽ không còn được ăn bánh lại còn lẩm bẩm như thế nữa.” Và rồi bà làm gì? Bà cho thuốc độc vào ổ bánh dư bà vẫn để cho anh lưng gù như mọi ngày! Thoạt khi sắp sửa bỏ ổ bánh có thuốc độc lên thành cửa, tay bà bỗng run lên. Bà hốt hoảng tự hỏi: “Mình đang làm gì thế?”
Ngay tức khắc, bà quăng ổ bánh có tẩm thuốc độc vào lửa bèn vội vã làm một ổ bánh khác ngon lành như mọi khi rồi để lên thành. Như mọi lần, anh lưng gù lù lù đến, anh ta vẫn lấy bánh lại cứ lẩm bẩm mỗi câu quen thuộc:
-Việc xấu người làm sẽ ở lại với người; việc tốt người làm cũng sẽ trở lại với người.
Anh cầm ổ bánh ra đi một cách vui vẻ mà không biết rằng trong lòng người đàn bà làm bánh cho anh ăn đang có một trận chiến dữ dội ở trong lòng. Mỗi ngày, khi bà đặt ổ bánh lên thành cửa cho người nghèo, bà đều cầu nguyện cho con trai bà đang đi xa tìm việc làm. Nhiều tháng ngày qua, bà không nhận được tin tức gì của con hết. Bà quyết chí ra sức cầu nguyện nhiều hơn nữa để con bà trở về nhà bình an, lành lặn. Chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa. Ra mở cửa, bà ngạc nhiên thấy con mình đang đứng trước cửa. Trông anh gầy xọp hẳn. Quần áo rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt mỏi. Thoạt trông thấy mẹ, anh liền nói:
-Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói lả, không đi nổi nữa cứ tưởng mình rồi cũng chết dọc đường thôi. Nhưng bỗng có anh con trai lưng gù đi ngang đang cầm cái gì đó có thể là thức ăn, con bèn xin anh cho con một chút gì ăn cho đỡ đói, thế là anh ta đã cho con nguyên ổ bánh mì còn nóng hổi, con ăn ngon lành, không kịp cám ơn anh ta nữa. Khi đưa bánh cho con, anh ta còn nói: “Đây là cái mà tôi vẫn có mỗi ngày, nhưng nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!”
Khi người mẹ nghe được những lời lời như thế, mặt bà bỗng biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã quỵ. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng sớm hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lò lửa thì con trai bà đã ăn phải bánh ấy và đã chết tốt!
Lập tức bà nhớ lại câu nói của người gù: “Việc xấu người làm, sẽ ở lại với người; việc tốt người làm cũng sẽ trở lại với người.” (Trích truyện kể ở trên mạng do một bạn vừa chuyển cho đọc, rất thích hợp)
Truyện kể ở đời vẫn thường là như thế. Như thế, tức: cứ kể để mà kể. Chứ sự đời, làm gì có những người làm mãi công việc mà người đời vẫn cứ cho là “ruồi bu”; hoặc như người chẳng có việc gì khác, ngoài những chuyện bao đồng, vô tích sự. Ruồi bu hay vô tích sự, đôi lúc có thể là sự thật rất thực như chuyện trong/ngoài nhà Đạo, bấy lâu nay.
Chuyện nhà Đạo hôm nay, có thể là chuyện hỏi người/hỏi mình xem: sự thật trong đời có là sự thực rất thật hay không để ta còn dựa vào đó mà học cách sống niềm tin? Hoặc, là chuyện rất “ruồi bu”/“bao đồng” mà sao thấy nhiều người vẫn cứ bỏ thì giờ, tiền bạc và công sức ra mà làm thế? Càng là chuyện “ruồi bu”/“bao đồng” hơn, khi có nguời dám quả quyết đưa lên báo một khẳng định rất chắc nịch, bảo rằng: “Chúa đã chết rồi” bạn hỡi, đừng làm chuyện ruồi bu nữa như sau:
“Vừa qua, có triết gia vừa là tác giả nhiều cuốn sách là Alain de Botton đã làm cho người đi Đạo “nổi giận” khi ông quả quyết rằng: mãi mãi là người vô thần có quyết tâm vẫn là chuyện khả thi, tức rất khả hữu để thực thi như chuyện thật. Và như thế, sẽ thấy chuyện mà đạo này đạo khác, nhất là Đạo Chúa vẫn làm đều là chuyện vô bổ, chả thích thú gì…”
Tác giả De Bottin đến Úc để quảng bá cuốn sách do ông mới viết: Tôn giáo dành cho người vô thần: một chỉ dẫn cho người không tin về những gì mà đạo giáo vẫn sử dụng. Còn nữa, ông lại còn đưa ra tựa đề để kích thích người tìm đọc như câu: Tại sao tôn giáo quan trọng đến độ hãy nhường cho những người đạo đức. Đó là những gì khiến tác giả De Botton tin rằng sách của ông sẽ hấp dẫn nhiều người đọc.
Ông còn nói: Chúng ta đều rõ là chính chúng ta sáng chế ra các đạo giáo để phục hai nhu cầu chính yếu vẫn kéo dài đến mãi hôm nay mà xã hội ngoài đời không giải quyết nổi dù có kỹ năng chuyên biệt. Thứ nhất, là: nhu cầu sống chung đụng trong tập thể rất hài hòa dù cho người trong cuộc có vị kỷ đến đâu đi nữa, cũng mặc. Thứ hai, là: nhu cầu đối đầu với khổ đau rất muộn sầu cứ vung lên từ khả năng dễ bị thương tổn mà giới chuyện nghiệp không làm gì nổi. Những khổ đau từ các quan hệ rối bời, dễ thương tổn đển cái chết của người thân và cả đến cặn cũng như cái chết của chính mình.
Có một điều mà tác giả De Botton cũng nói đến, là: “Xã hội ngoài đời hiện nay đang đối đầu với một thử thách lớn là: làm sao lật ngược ý định của các đạo giáo những muốn lập thuộc địa ở khắp nơi, trên thế giới. Thế nên, vấn đề là: làm sao tách rời các ý tưởng và nghi tiết phụng thờ ra khỏi thể chế đạo giáo từng yêu cầu những sự việc mà chính mình lại không sở hữu.” (xem Zac Alstin, God is dead! Can I Have his Stuff, Mercatornet 20/02/2012)
Ruồi bu hay không, hãy cứ nghe thêm một đoạn khác của nghệ sĩ ngoài đời, từng diễn tả sự đời, chuyện đời rất như sau:
“Đắm say, trong muôn mây hồng,
Cùng em chìm đắm suối mơ thắm hương nồng.
Có em phiêu du tang bồng,
Cùng nhau nhẹ bước, gót chân mềm thinh không.”
(Nhạc gốc: Love is blue – bđd)
Cũng chẳng biết tác giả trên nói làm sao, hiểu thế nào về tôn giáo và niềm tin. Nhưng cùng lúc, lại có tác giả khác cũng minh định sự việc của Đạo rất như sau:
“Tôi nhớ có lần có người bạn Công giáo của tôi đã bình luận một điều khá ư là sôi nổi khi chúng tôi bàn về cuộc chiến văn hoá “đụng” phải các vấn đề gai góc như: phá thai, hôn nhân giữa người đồng tính, tôn giáo và niềm tin, vv.. Và, bạn này vẫn cứ bảo: cuối cùng thì anh coi đấy, chúng tôi sẽ toàn thắng cho mà xem!” (x. Marcus Roberts, A More Relious Future MercatorNet 24/5/2012)
Nói gì thì nói, gọi gì thì gọi. Bạn có gọi đó là chuyện vô bổ, ruồi bu hoặc chẳng thích thú, vô thần/hữu thần hay gì gì đi nữa, cũng vẫn là nói và gọi những sự rất thật xảy ra trên đời. Thế nhưng, trên đời này có chăng sự thật? Hoặc, sự thật là những sự gì mà “thật” đến thế?
Để trả lời vấn nạn đại loại như thế, thì đây là lập trường của một đấng bậc ở đan viện có kinh nghiệm đạo/đời, đã có lời như sau:
“Thế hệ người Công giáo trước thời Công đồng Vatican 2 không thấy khó khăn gì khi nhớ lại nơi mình từng đi hành hương, từng có nhiều giờ để viếng thánh tích của Đức Mẹ hoặc các thánh để lại khi các ngài hiện ra với cháu con; hoặc: các buổi chầu Mình Thánh suốt nhiều giờ, cũng hệt thế.
Mới đây, nhân dịp mừng kỷ niệm 60 năm linh mục của Đức Bênêđíchtô 16, Đức Hồng y phụ trách thánh bộ Giáo sĩ có yêu cầu các Giám mục trên thế giới hãy cùng nhau bỏ ra 60 giờ chầu Thánh Thể để cầu nguyện cho Đức Thánh Cha. Giáo dân thuộc các đạo giáo cũ/mới, kể cả Do thái giáo xưa, cũng có thói quen chầu lượt hoặc cung nghinh thánh tích của các vị thần linh thánh hoá trong đạo mình ngõ hầu mọi người có thể định ra được lý lịch thâm căn của đạo mình.
Công đồng Vatican 2 từng đưa ra một cải cách phụng vụ nhằm tái thiết lập sự quân bằng thần học giữa việc cử hành Tiệc Thánh (còn gọi là thánh lễ Misa) và việc sùng kính chầu Thánh Thể, ngoài thánh lễ. Các thế kỷ trước, phụng vụ của ta đã để mất đi sự quân bằng ấy.
Tiệc Thánh Thể thật sự gồm cả việc ngợi ca chúc tụng Chúa và cứu rỗi con người. Đó là cung cách để toàn thể cộng đoàn cùng nhau cử hành sự hiện diện của Đức Kitô và nhiệm tích Vượt Qua của Ngài. Điều này xảy đến vào khoảnh khắc mọi người tụ tập nhau lại mà cử hành Tiệc Thánh Thể (tức thánh lễ) cả vào lúc ta nghe công bố Lời của Chúa và cả vào lúc cộng đoàn lành thánh trao cho nhau bánh và rượu được dâng tiến như của lễ chúc tụng Chúa. Thật ra, còn có các hình thức khác cho thấy Đức Giêsu Kitô “thực sự” hiện diện theo cung cách tư riêng của Ngài, nhưng không giống loại hình ở trên.
Khi xưa, thánh Phaolô nói với dân con Đạo Chúa ở Côrinthô về cung cách họ cử hành Tiệc Thánh Thể, thánh-nhân phàn nàn về sự việc mà một số người trong cộng đoàn khi ấy đã cùng nhau ăn thực phẩm mình mang đến, trong khi một số khác không mang gì nên ngồi chịu trận, rất đói. Và, thánh nhân nói thêm: Nếu anh chị em ăn uống như thế tức mình đã phung phí Thân Mình Đức Kitô, thôi.
Đọc những điều này mà đem so với các nền thần học của thế kỷ thứ 19, hẳn người đọc sẽ hiểu là thánh Phaolô có ý nói bạn đạo hồi ấy không cảm kích đủ rằng Thân Mình Đức Kitô thực sự hiện diện sau lúc biến thể. Thế nhưng, điều mà thánh Phaolô thực sự muốn nói, là: bà con bạn đạo thời ấy không cảm kích đủ sự hiện hữu của các người anh, nguời chị trong cộng đoàn –tức Thân Mình của Chúa. Các ngài là Thân Mình Chúa hiện diện thực thụ theo cách thế riêng tư nơi người nghèo đang ngồi đó, rất đói bụng.
Hiện nay, nhiều người vẫn có khuynh hướng nhân rộng giờ chầu lượt có đặt Hào quang Mình Thánh Chúa trên bàn thờ. Có thể, có người trong chúng ta vui thú với sự kiện khá nhiều người, thuộc mọi tầng lớp, tuổi tác, có khi cả người trẻ cũng từng trải các giờ chầu, cầu nguyện lâu giờ như thế. Nhưng cũng đúng khi có người sợ rằng: sự quân bình mà Công đồng Vatican 2 đưa ra có thể sẽ không còn nữa. Quân bình đây, là dung hoà giữa việc cử hành Tiệc Thánh do Chúa yêu cầu (“Hãy làm việc này mà nhớ đến ta, tức: hãy cầm lấy mà ăn”) và việc sùng kính Thánh Thể ngoài giờ Lễ.
Sùng kính trong Thần Khí và Sự thật là động thái thường xuyên liên tục của con người toàn vẹn. Sự sống có nghĩa thấm nhuần vào sự sùng kính ấy. Nếu lại nói nhiều về số giờ được cân đong đo đếm để sùng kính sẽ làm giảm bớt ý nghĩa của việc sùng kính theo cách tính toán cộng trừ nhân chia, mà thôi. Và như thế, cũng dễ khiến ta bệnh hoạn, đau yếu. (x. Dom Armand Veilleux, Đan-viện-phụ tu-viện Scourmont, nước Bỉ viết vào tháng 10/2012)
Viết về sự thật của quan hệ mến thương trong Đạo, là diễn tả cho thấy sự cần thiết về quân bằng và trọng tâm của Tiệc Thánh. Diễn tả về “Tình Yêu Mờ Khuất” theo kiểu nghệ sĩ ngoài đời, còn là diễn và tả bằng lời ca như sau:
“Xót xa, đau thương, ê chề
Tình yêu vuột mất, cánh chim đã quên về.
Nhớ thương, riêng tôi nảo nề,
Tình yêu mờ khuất, mang theo niềm đam mê.”
(Nhạc gốc: Love is blue – bđd)
Nghệ sĩ ở đời vẫn nói và hát như thế. Thánh hiền trong Đạo lại cũng nói và nhắn như sau:
“Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa,
há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư?
Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh,
đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?
Bởi vì chỉ có một tấm Bánh,
và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy,
nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể.”
(1Cr 10: 16-17)
Hát ca hoặc nhắn nhủ, cũng là chuyển lời để nói với người nghe những điều không còn là “ruồi bu”/vô bổ, hoắc chán ngấy, nữa. Nhắn và hát, cũng chỉ để nói với nhau và cho nhau một sự thật. Sự thất ấy, rõ rành rành, rằng: mọi người chúng ta đều có quan hệ, đều thân thương mật thiết như cùng một thân thể. Thân và thể ấy, cũng rất thân và rất thương, như lời kể của bạn bè ở bên dưới:
“Đôi vợ chồng mù trong thôn bà ngoại tôi năm nay đã sắp sửa tám mươi tuổi, đã có một đống con cháu. Nghe bà ngoại kể lại, khi cưới nhau, chồng ngồi xe bò đi đón vợ. Tuy cô dâu chú rể đều không nhìn thấy màu sắc, song chú rể vẫn sai người cuốn đầy lụa điều lên xe bò và đầu bò. Đón cô dâu về nhà, chú rể dắt tay vợ rà mò từ nhà trên xuống nhà bếp, rà mò khắp lượt các ngóc ngách trong gia đình. Việc khó hơn cả là múc nước ở cạnh giếng, lần nào cũng thế, hai người dắt nhau đi, vợ sờ thấy cây gỗ ở cạnh giếng, một tay ôm chặt cây, còn tay kia níu chặt bàn tay chồng. Chồng quỳ trên sàn giếng thả gầu xuống múc, nước lên. Trong thôn có người ra giúp, hai người thường từ chối, họ bảo:”Các anh giúp được chúng tôi một giờ, không giúp được chúng tôi một đời”.
Cứ như thế, hai vợ chồng luôn luôn tay dắt tay nhau gánh nước cho đến khi đứa con đầu lòng có thể gánh nổi một gánh nước. Dân làng cảm thấy lạ lùng, đã có mười mấy trai gái trẻ trong thôn đã từng vì đất trơn, trượt chân ngã xuống giếng, nhưng hai vợ chồng mù chưa bao giờ bị như vậy. Càng lạ lùng hơn là chuyện, mặc dù có đông người đang cùng nhau nói chuyện hỉ hỉ hả hả, hai người mù vẫn có thễ nhờ vào tiếng hít thở dài dài mà tìm ra nhau.
Bởi không nhìn thấy, dù mưa dù gió, người ta thường trông thấy hình ảnh hai người dắt tay nhau. Dù làm việc gì, họ cũng tay trong tay. Tay trong tay, hình tượng để nhiều nhà văn viết đi viết lại ấy, đã xuất hiện suốt nửa thế kỷ ở cái thôn nhỏ bé chẳng ai biết đến này.
Ông chồng là tay thổi kèn trong ban nhạc ở thôn quê, thường đến các đám cưới của người khác thổi nhửng bài:”trăm con chim phượng hoàng”, “niềm vui đầy nhà” … mặc dù đi thổi kèn ở đâu, ông cũng chỉ có một yêu cầu, cho người vợ mù cùng đi. Để vợ ở nhà một mình, ông không yên tâm thổi kèn. Khi chồng thổi kèn, vợ ngồi bên chồng lặng lẽ nghe, dường như những điệu nhạc vui nhộn này đều là ông thổi cho bà. Trên khuôn mặt người vợ mù thường hay đỏ ửng lên, khiến ai nấy cũng cảm thấy người đàn bà mù đang ngồi lặng lẽ kia xinh đẹp biết chừng nào.
Về sau này, hai vợ chồng đều đã già, không bao giờ đi ra ngoài nữa, chỉ quanh quẩn trồng nhiều hoa trong sân to nhà mình, tất cả đều là những giống hoa tươi rực rỡ, đến kỳ hoa nở, cả sân đỏ rực.
Một lần, ông sơ ý bị ngã què chân. Trong những ngày ông nằm bệnh viện, bà bốn ngày liền không ăn một hột cơm vào bụng, bà bảo, không sờ thấy bàn tay quen thuộc kia, bà chẳng còn lòng dạ nào mà ăn nữa.
Con cái sáng mắt cũng từng hỏi đùa bố mẹ :”Nếu trời giành cho bố mẹ một cơ hội, liệu bố mẹ có định dùng mắt nhìn nhau không?”
Bà mẹ mù trả lời:
– Các con nhìn người bằng mắt, bố mẹ nhìn người bằng trái tim, tim sáng hơn mắt, thật hơn mắt.
Ông bố mù thì bảo:
– Dắt tay nhau một đời, có bao nhiêu đường vân trong lòng bàn tay mẹ con đều đã in trong trái tim bố. Bố chưa bao giờ trông thấy một người đẹp nhất, trong trái tim bố thì mẹ con là người đẹp hơn cả. Cần mắt để làm gì, mắt là thứ tham lam nhất trên trần đời, nhìn cái gì cũng chia ra tốt hay xấu, xinh hay không xinh, nhìn cái gì muốn có cái đó, trên mặt người ta có một cái rỗ cũng có thể để trong tim suốt đời.
Cũng có người nêu ra ví dụ, nếu vợ mù trông thấy mặt chồng bị bỏng sẽ có cảm tưởng thế nào. Lại có người đặt giả thiết, nếu chồng nhìn thấy hai tròng mắt vợ lõm hẳn xuống, liệu có hối hận lời mình nói không? Bởi vì chúng ta có mắt, cho nên khi chúng ta nhìn người, chỉ dựa vào cảm giác của mắt mà quên dùng trái tim. Đúng như người vợ mù đã nói, con mắt của trái tim mới là sáng nhất, thật nhất.” (truyện kể trên mạng không rõ xuất xứ)
Xuất xứ của truỵện kể, có thể là cũng từ trái tim của ai đó, thấy rõ sự đời nằm ở trái tim. Trái tim không chỉ có máu, có thịt, mà còn có cả đôi mắt tinh thần nữa. Con mắt ấy mới giá trị. Con mắt ấy mới là tấm gương phản ánh tâm hồn của mọi người, dù con người không nhận ra. Cứ nghĩ: những chuyện như thế giống như thể “chuyện vô bổ”, rất ruồi bu.
Cũng như thế, xuất xứ của mọi chuyện trên đời, đều được con mắt tinh thần này thu thập, và nhìn thấy hết. Mọi diễn tả của “con mắt tinh thần” mới quan trọng. Mới là đường hướng dẫn dắt con người đi khắp nơi. Mọi chốn. Cả những chốn những miền trong lòng người đi Đạo, ở nhà Đạo.
Thế nên, hãy cứ hỏi: có nên dùng mắt mình để làm được nhiều thứ. Cả những thứ linh thiêng, tinh thần của nhà Đạo? Câu trả lời, xin dành để bà con trong họ/ngoài làng rất Đạo cứ đưa ra.
Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc vẫn muốn trả lời
và trả một lời nhưng lại thôi.
Dù biết mình biết người
vẫn luôn hỏi.