TÌNH TRẠNG GIỚI TRẺ VIỆT NAM TỰ TỬ VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐỀ PHÒNG

“Tình trạng tự tử ở thanh thiếu niên 15 – 24 tuổi đã tăng hơn 40% trong 10 năm qua. Tại Việt Nam, thực trạng tự tử ngày càng trẻ hóa và có dấu hiệu gia tăng, trên thực tế con số có thể nhiều hơn so với số liệu thống kê. [1]

Trên đây là tài liệu trích dẫn và được phổ biến trên báo điện tử Tuổi Trẻ, ngày 4 tháng 5 năm 2022. Ngoài ra, cũng theo những tài liệu được phổ biến của báo điện tử Kinh Tế & Đô Thị, ngày 27 tháng 3 năm 2022 thì:

Theo số liệu của điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên ở Việt Nam lần thứ 2 (do Bộ Y Tế, Tổng Cục Thống Kê, WHO tổ chức năm 2000) trên 10.000 thanh thiếu niên, thực hiện tại 63 tỉnh thành có tới 409 người (4,1%) có ý định tự tử. Thống kê khác của Trung Tâm Phòng Chống Khủng Hoảng Tâm Lý (PCP), ở Việt Nam thanh thiếu niên thuộc độ tuổi từ 15 – 24 là nhóm tuổi có ý định tự sát cao hơn cả, và tỷ lệ nữ giới có ý định tự sát cao gấp hai lần so với nam giới.

So sánh với thống kê toàn thế giới, báo này viết: Theo báo cáo của Quĩ Nhi Đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), hàng năm, trên thế giới có trên 800.000 người chết vì tự tử, và con số toan tự tử còn cao hơn thế. Các nước thu nhập thấp và trung bình (LMICS) đặc biệt có nguy cơ về tự tử chiếm 75% số vụ tự tử trên toàn cầu năm 2012, trong đó các nước thu nhập thấp và trung bình ở khu vực Đông Nam Á chiếm tỷ lệ cao nhất, gần 40% tổng số vụ tự tử (WHO, 2016). Tự tử là nguyên nhân gây tử vong thứ hai đối với nhóm tuổi từ 15 đến 29 trên thế giới trong năm 2012 (sau tai nạn giao thông). Trung bình mỗi ngày, khoảng 3.000 trẻ vị thành niên chết do tự tử trên thế giới. [2]

Phổ biến trên Vietnamnet global ngày 19 tháng 2 năm 2018, Unicef (United Nations Children’s Fund) cơ quan thuộc Liên Hiệp Quốc đáp ứng việc phát triển nhân quyền và giúp đỡ mở mang trẻ em trên toàn thế giới, sau cuộc khảo cứu các thanh thiếu niên Việt Nam tuổi từ 11-14 tại bốn thành phố/tỉnh là Hànội, HCMC, Điện Biên và Hà Giang, đã cho biết 8-29% các thanh thiếu niên có những vấn đề về sức khỏe tâm thần, từ nhẹ đến trầm trọng. 2-3% đã tự tử. Xác suất này tuy thấp so với trung bình toàn thế giới là 9%. Tuy nhiên, con số này đang tăng. [3]

NGUYÊN NHÂN

Lý do Tâm thần

Trầm cảm được cho là nguyên nhân chính đưa đến những cái chết của giới trẻ. Theo số liệu của một vài nghiên cứu tại Việt Nam gần đây, tỷ lệ bị trầm cảm là 26,3%, có suy nghĩ về cái chết là 6,3%, lập kế hoạch tự tử là 4,6% và cố gắng tự tử là 5,8%. Ngoài trầm cảm, những hội chứng tâm thần khác như tâm thần phân liệt, hoang tưởng, ảo tưởng cũng là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tự tử của giới trẻ. [4]

Ảnh hưởng gia đình

Vẫn theo báo điện tử Kinh Tế & Đô Thị, song song với những ảnh hưởng về tâm sinh lý là ảnh hưởng tiêu cực về gia đình như gia đình bất an, xào xáo, cha mẹ ly hôn, cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, thiếu trách nhiệm hoặc bỏ bê con cái. Thiếu sự quan tâm, săn sóc và giao tiếp giữa con cái và cha mẹ. Những đối xử bất công, thiếu nhân văn và nhân bản giữa con ông, con tôi, con chúng ta. Bị lạm dụng, xúc phạm, hành hạ về tinh thần, thể xác, và tâm lý. Bị cha mẹ bỏ rơi, coi thường, mắng chửi. Bị đối xử bất công, phân biệt giữa con trai, con gái, anh, chị, em với nhau. Bị cha mẹ cưỡng bức về tình cảm, ép hôn hoặc ngăn cản tình cảm..

Bạn bè và Xã hội

Truyền thông hiện nay tràn ngập những phương tiện như YouTube, facebook, truyền thanh, truyền hình, internet, các báo điện tử và những ứng dụng trí khôn nhân tạo đang cung cấp, phổ biến các thông tin sai lạc về những tệ trạng xã hội như tự tử, chết êm dịu, hoặc hướng dẫn tìm những cảm giác mạnh… Từ đó dẫn đến những suy nghĩ lệch lạc về cái chết.

Cùng với sức ép của xã hội là ảnh hưởng và sức ép của bạn bè, của việc tham gia các nhóm kín trên mạng, và sử dụng chất nghiện như rượu hoặc ma túy.

Áp lực học đường

Tại Việt Nam, áp lực học đường cũng là một trong những nguyên nhân thường gặp gây ra các vụ tử vong của giới trẻ. Chương trình học tại trường, học kèm đã chiếm hầu hết thời gian làm cho trẻ cảm thấy luôn căng thẳng, mệt mỏi, tự ty, mặc cảm trước những thất bại trong học tập, thi cử. Ngoài ra tệ nạn bắt nạt ở trường, bị trêu chọc hoặc bị cô lập.

Tình trạng bị bắt nạt tại các trường ở Việt Nam tăng trong thập niên vừa qua đã được báo cáo qua đường dây nóng cho Bộ Săn Sóc và Bảo Vệ Trẻ Em (the Department of Child Care and Protection). Kết quả khảo cứu ở hai trường tại Hải Phòng cũng cho thấy gần 57% học sinh được tham khảo đã bị bắt nạt. [5]

Hiện nay, trên thực tế ở Việt Nam, vấn đề sức khỏe tâm thần, đặc biệt tâm lý thanh thiếu niên tại các trường chưa được quan tâm, chú trọng. Theo đánh giá của các chuyên gia, ở Việt Nam tư vấn học đường vẫn còn thiếu các cơ sở tư vấn tâm lý. Hệ thống này không có tại các trường học hoặc  ở từng khu vực, cộng đồng dân cư. Các chương trình tư vấn trực tuyến với mục đích ngăn ngừa tự sát cho trẻ vị thành niên người trẻ cũng còn thiếu. [6]

Cá nhân

Nguyên nhân của việc hình thành ý nghĩ tự tử và hành vi tự tử, vẫn theo tài liệu trích dẫn từ báo điện tử Kinh Tế & Đô Thị, chủ yếu ảnh hưởng đến các em gái, bao gồm: thất bại trong chuyện tình cảm, thất tình, tình phụ, thường là bị bạn trai bỏ rơi.

Đối với các em trai, nguyên nhân cũng bao gồm thất bại trong việc đáp ứng những kỳ vọng của xã hội về vai trò và hành vi chuẩn mực của một người nam giới, chẳng hạn sự thành đạt và địa vị tương lai, trong đó có khả năng làm người trụ cột trong một gia đình.

Tóm lại, những lý do cá nhân dễ đưa đến tự tử của tuổi trẻ chính là khó khăn về sức khỏe thể lý, tâm lý, tâm thần, khả năng trí tuệ, những thất bại trong tình yêu, thua kém trong việc học hành, thiếu quan hệ bạn bè, hoặc bị lạm dụng tình dục…

NHỮNG DẤU HIỆU 

NIH (National Institute of Mental Health) cho hay những dấu hiệu báo trước của những người đang có tư tưởng hoặc ý định tự tử, đó là: Tự rút lui hay cô lập, tách biệt khỏi bạn bè. Nói những lời tạ từ, tạm biệt, chào biệt. Cho đi những kỷ vật, vật dụng quý và quan trọng. Hoặc có những lời trăn trối, di chúc. Ngoài ra còn có những dấu hiệu khác mang tính cách nguy hiểm như lái xe bạt mạng. Thay đổi đột ngột về thái độ và lối sống. Ăn uống hoặc ngủ nghỉ bất thường, thí dụ, ăn nhiều, ngủ nhiều, hoặc ăn ít hay ngủ ít… [7]

HÌNH THỨC TỰ TỬ

Phương tiện phổ biến nhất được trẻ em dưới 15 tại Việt Nam là nhảy từ các tòa nhà cao tầng, lao vào dòng xe cộ, cắt cổ tay, hoặc treo cổ. [8] Tương tự như kết quả khảo cứu của NIH là những cách mà tuổi trẻ dùng để tự tử đó là treo cổ, nhẩy lầu, lao ra đường rầy xe lửa (cả hai phái), dùng thuốc (nữ), và dùng súng (nam). So sánh với người lớn, lao ra đường rầy xe lửa được cả hai phái trẻ nam và nữ dùng nhiều. Trong khi nhẩy lầu được trẻ nam dùng nhiều hơn. [9]

PHƯƠNG PHÁP ĐỀ PHÒNG

Việt Nam cũng giống như nhiều quốc gia Á Châu, hệ thống ngăn ngừa hoặc giúp đỡ về tự tử vẫn chưa được phổ biến, mặc dù tự tử là một trong 10 lý do dẫn đến cái chết ở Việt Nam trong năm 2002.[10]

Theo Tạp Chí Khải Dẫn Á Châu Thái Bình Dương (Journal of Asia Pacific Counseling) nhận định, hệ thống khải dẫn hay tư vấn tâm lý chuyên môn hay chuyên nghiệp tại các trường ở Việt Nam vẫn chưa có. Các trường ở đây không chú tâm đến những xung đột hoặc vấn nạn về sức khỏe tâm thần của học sinh. [11]

Xã hội không có hệ thống phòng ngừa và hỗ trợ. Học đường không quan tâm và cũng không có những chương trình trợ giúp. Hệ thống tư vấn hay những dịch vụ tâm lý tư nhân tuy có nhưng đắt đỏ và cũng chưa phổ thông hoặc thừa nhận tại Việt Nam. Như vậy, bổn phận chính còn lại thuộc về phụ huynh và nền giáo dục gia đình.

Ngoài khả năng đưa con đi khám hoặc chữa trị chuyên khoa ngay khi nghi ngờ trẻ có vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm lý hoặc tâm thần như buồn giận, cáu gắt, căng thẳng, lo lắng, hốt hoảng, nóng nảy, mất tập trung, tự kỷ, trầm cảm, tâm thần phân liệt, ảo tưởng hoặc ảo giác. Những hội chứng tâm bệnh lý kể cả tư tưởng tự tử phải được chữa trị bằng cả hai phương pháp: thuốc và tâm lý.

Còn lại cha mẹ phải dành nhiều thời giờ với con cái. Quan tâm đến những dấu hiệu tâm lý bất thường của chúng. Lắng nghe, tìm hiểu và chia sẻ những khó khăn về mặt tâm sinh lý ở tuổi dậy thì, thời gian tiền phát triển. Để ý đến việc học hành, bạn bè, và những cám dỗ, tệ nạn xã hội có thể ảnh hưởng đến các con. Tình thương, nâng đỡ, khuyến khích, an ủi và quan tâm của cha mẹ là liều thuốc hữu hiệu nhất chữa trị những tư tưởng tiêu cực và bất mãn muốn tìm đến cái chết của con cái. Muốn được như vậy, căn bản nhất vẫn là một bầu khí đạo đức, hạnh phúc, thương yêu và an toàn của gia đình giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau.

 ___________

Tài liệu tham khảo:

1.https://tuoitre.vn/dung-chi-danh-gia-kha-nang-tu-tu-cua-nguoi-tre-20220504194520589.htm

2.https://kinhtedothi.vn/nguoi-tre-muon-tu-tu-nhung-nguyen-nhan-khong-ai-ngo-toi.html

3.https://vietnamnet.vn/en/8-29-of-youth-have-mental-health-problems-2-3-commit-suicide-report-E195614.html

4.https://kinhtedothi.vn/nguoi-tre-muon-tu-tu-nhung-nguyen-nhan-khong-ai-ngo-toi.html

5.https://www.google.com/search?client=firefox-b-1-d&q=Bulling+in+schools+in+Vietnam

6.https://kinhtedothi.vn/nguoi-tre-muon-tu-tu-nhung-nguyen-nhan-khong-ai-ngo-toi.html

7.https://www.nimh.nih.gov/health/publications/warning-signs-of-suicide

8.https://tuoitre.vn/dung-chi-danh-gia-kha-nang-tu-tu-cua-nguoi-tre-20220504194520589.htm

9.https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/22130898/

10.https://academic.oup.com/book/24371/chapter-abstract/187277838?redirectedFrom=fulltext

11.http://japconline.org/journal/article.php?code=75194

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

Chia sẻ Bài này:

Related posts