Trước nguy cơ trái đất bị hủy diệt hay còn gọi là Tận Thế ấy người ta đang có nhiều kế hoặch hoặc để cứu vãn hoặc rời bỏ nó. Sự hủy diệt được báo trước bằng hiện tượng trái đất đang nóng dần lên và tác hại sẽ ngày càng gia tăng khi lớp băng trên Bắc Cực bị tan ra. Để cứu vãn hậu quả sự…tan băng ấy hiện đang có đề nghị lắp đặt mười triệu chiếc quạt chạy bằng sức gió để vào mùa đông sẽ bơm nước lên khắp bề mặt hầu tạo một lớp băng dày trên một mét….Dự án này dự trù một kinh phí cần có là 500 tỷ USD. Tuy nhiên dù tốn kém như vậy nhưng giới khoa học cho rằng đó chỉ là một tham vọng điên rồ chẳng những không thực tế mà cũng chẳng thể làm bớt đi hiệu ứng nhà kính có nghĩa trái đất này rồi ra sớm hay muộn cũng sẽ bị hủy diệt.
Nếu không thể cứu vãn thì chỉ còn có cách là… rời bỏ nó. Từ nhiều năm nay con người đã…rục rích chuẩn bị cho một nơi ở mới để phòng khi trái đất quá tải hoặc khi đại họa đến. Các nhà khoa học và thiên văn học không ngừng tìm kiếm sự sống trên các hành tinh xa xôi trong hệ mặt trời. Một trong các điểm đến được hy vọng nhất chính là Sao Hỏa. Hiện đã có 200000 ( hai trăm ngàn ) người trên khắp thế giới đăng ký tham dự. Nhưng chỉ tuyển chọn được có…24 người đủ điều kiện để…lên sinh sống và ở lại luôn trên đó không bao giờ còn trở về nữa ??? ( Tin Mới. Com – 16/2/2017 ).
Vì sao con người ngày nay chỉ muốn cứu vãn trái đất và khi nhắm không thể cứu được thì lại muốn rời bỏ nó ? Đó là vì người ta đã không tin vào sự hiện hữu của Nước Thiên Đàng. Một khi đã không tin thì cũng không thể có ước nguyện về đó. Tin có Thiên Đàng có Hỏa Ngục và sự thưởng phạt vô cùng của Thiên Chúa đó là niềm tin cố hữu của người Công Giáo. Trong các kinh nguyện của tín hữu chúng ta vẫn tụng đọc hàng ngày để ý sẽ thấy hầu hết đều thể hiện niềm tin này.
Đức tin là cánh cửa mở vào Đạo, không có đức tin thì cánh cửa ấy sẽ bị đóng lại. Tình trạng thiếu hoặc mất đức tin như đang xảy ra có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu vẫn là do nơi ảnh hưởng não trạng duy lý của thời đại. Với duy lý thì không thể có đức tin bởi lẽ tin cũng có nghĩa là đặt hy vọng vào những điều chưa thấy “ Vì chúng ta được cứu trong sự hy vọng nhưng sự hy vọng đã thấy được thì chẳng phải là hy vọng. Vì có ai lại hy vọng vào điều mình đã thấy rồi ư ? Song nếu hy vọng vào điều mình chưa thấy thì chúng ta mới nhẫn nại mà đợi trông” ( Rm 8, 24 -25 ).
Người có đạo đặt tất cả hy vọng vào điều mình chưa thấy nhưng với những người chủ trương duy lý thì đó chẳng qua chỉ là sự bịp bợm như lời Các Mác nói “ Tôn giáo là sự thể hiện bản chất của con người trong tưởng tượng bởi vì bản chất của con người không có tính hiện thực chân chính. Vì thế đấu tranh chống tôn giáo gián tiếp cũng là đấu tranh chống các thế giới mà tôn giáo là hương thơm tinh thần. Cảnh khốn cùng của tôn giáo vừa là cách diễn tả cảnh khốn cùng thực sự vừa là sự phản kháng cảnh khốn cùng thực sự. Tôn giáo là tiếng than vãn của thọ tạo bị áp bức là tâm hồn của một thế giới vô hồn cũng như tôn giáo là tinh thần của những tình huống vắng bóng tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” ( Karl – Heinz Weger – Phê Phán Tôn Giáo Qua Các Tác Giả ).
Qua sự phê phán này cho thấy không hề có Thiên Đàng, đó chỉ là sự bịa đặt của tôn giáo về một thứ đời sau vô vọng. Không có đời sau, điều ấy nghĩa là gì nếu không phải là chủ trương con người chết là hết ? Tuy nhiên nếu bảo rằng chết là hết thì chẳng những tôn giáo mà ngay đến cả ý hệ Cộng Sản với chủ trương xây dựng thế giới đại đồng cũng là vô nghĩa. Dĩ nhiên chết không phải là hết mà vẫn tồn tại một cái gì đó và cái chi đó mỗi một tôn giáo mỗi một chủ nghĩa đều có cho mình một quan niệm khác nhau. Với Phật Giáo thì đó là Nhập Niết Bàn, với Hồi Giáo là Thiên Đàng với đầy đủ dục lạc gái trai này nọ. Với Hiện Sinh vô thần là để xây dựng một thứ trần gian với những giá trị của nó “ Anh em phải luôn luôn trung thành với trái đất, trung thành với tất cả sức mãnh liệt của nhân đức anh em. Tình yêu và trí thức của anh em phải phụng sự ý nghĩa của trái đất. Tôi nài xin anh em điều đó. Từ nay nhân đức và tinh thần của anh em chỉ phụng au75 ý nghĩa của trái đất thôi. Nhờ đó tất cả mọi sự sẽ co`1 một giá trị mới. Tôi cậy vào anh emm anh em phải là những vị sáng tạo” ( T.T. Đỉnh – Triết Học Hiện Sinh ).
Không có đời sau chỉ có cõi đời này, đây không phải quan điểm chỉ riêng của duy vật vô thần hoặc Hiện Sinh nhuj7ng là cho cả nền Thần học hiện nay khi nó bước vào con đường Tục Hóa “ Loan báo Tin Mừng cũng là một thành phần của công trình giải thoát. Nội dung của nó là Nước Thiên Chúa đã đến, đến cho người nghèo khổ và bị áp bức. Nền tảng của nó là các mối phúc ( Lc 6, 20 ) Nước Thiên Chúa này ở ngay giữa trần gian khi người nghèo không còn nghèo, người bị áp bức thoát ách khốn khổ” ( Đgm Phao Lô Bùi Văn Đọc và các linh mục khác )
Công trình giải thoát mà thần học đề cập đến ở đây thực chất đó chỉ là giải thoát mang tính chính trị và như thế nó chẳng có quan hệ gì đến cái ước nguyện Thiên Đàng của người Công giáo. Ước nguyện và lòng tin luôn gắn bó mật thiết với nhau. Một mặt ước nguyện do lòng tin thúc đẩy mặt khác lòng tin có được tăng trưởng hay không lại do có ước nguyện. Là người Công giáo mà không có ước nguyện được về sống với Chúa cùng với Đức Mẹ và chư thần thánh thì cuộc sống đạo ấy chỉ là vô bổ. Tại sao ? Bởi như thế tức là ta đã vô tình phủ nhận công ơn cứu chuộc của Đức Ki Tô khi Ngài đã có lời hứa trước khi đi nộp mình chịu chết “ Lòng các ngươi chớ bối rối, đã tin ĐCT thì cũng hãy tin Ta nữa. Trong Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở, bằng chẳng vậy Ta đã nói với các ngươi rồi Ta đi mà sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi thì Ta sẽ trở lại tiếp các ngươi về với Ta hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng sẽ ở đó với Ta” ( Ga 14, 1 -3 )
Đức Ki Tô từ trời xuống thế chịu người đời sỉ nhục rồi giết chết tất cả cũng chỉ vì Đại Nguyện muốn cứu vớt hầu cho ta được về sống với Ngài trên Nước Thiên Đàng vĩnh cửu. “ Phần Ta khi được treo lên Ta sẽ lôi kéo các ngươi lên cùng Ta” ( Ga 12, 32 ). Chúa chết là vì phần rỗi của con người do đó điều kiện trước hết Ngài đòi hỏi ở nơi chúng ta là phải đặt hế niềm tin vào Ngài “ Ta là sự sáng đếnvới thế gian hầu hễ ai tin vào Ta thì chẳng cứ ở trong tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ thì Ta chẳng xét đoán kẻ đó vì Ta đến chẳng phải để xét đoán nhưng là để cứu rỗi thế gian” ( Ga 12, 46 -47 ).
Tin Chúa thì phải tuân giữ Lời Chúa và Lời Chúa chính là Mười Điều Răn ĐCT và sáu luật điều Hội Thánh. Tất cả các giới răn được lập ra cũng không ngoài mục đích để cho ta thực hiện con đường của Đức Ki Tô là trở về với Cha “ Ta là đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).
Ngoài lòng tin vững chắc vào con đường của Đức Ki Tô, nhất thiết chúng ta cần phải có ước nguyện thiết tha thì mới về được Nhà Cha cũng là Nước Thiên Đàng đời đời. Nhưng để có được ước nguyện này con người cần phải nhận ra thân phận khốn khổ của mình. Người con trong dụ ngôn “ Đứa Con Hoang Đàng” chỉ có được cái quyết tâm trở về khi nó nhận ra tình trạng khốn nạn của mình “ Khi đã xài phí hết cả rồi lại xảy ra trong xứ cơn đói kém lớn nó mới phải đi ở đợ cho một công dân của xứ đó. Người ấy sai nó ra đồng chăn heo. Nó rất mong lấy vỏ đậu của heo ăn mà thồn cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho” ( Lc 15, 14 -16 ).
Có khổ mới mong thoát khổ, có bị xiềng xích mới mong giải thoát. Con người chỉ có thể có ước nguyện Thiên Đàng một khi nhận ra cõi đời này là cõi khổ: Khổ vì sinh lão bệnh tử, khổ vì phải sống xa người thân yêu lại phải gần kẻ thù nghịch v.v…Thế nhưng trên hết những nỗi khổ đau ấy không phải vì sự bức bách của áo cơm bạc tiền hay là bị áp bức bất công mà là do ngu si không biết con đường về với Đấng Cha cũng là bản tâm bản tính mình.
Để có thể nhận biết con đường về này thì như lời Thánh Gioan nói phải đặt hế lòng tin nơi Chúa Giê Su Ki Tô Đấng Dẫn Đường “ Hỡi kẻ yêu dấu chớ tin mọi thứ Linh nhưng hãy thử nghiệm các Linh ấy có phát ra từ ĐCT chăng vì chưng có nhiều tiên tri giả đã đến trong thế gian. Nhơn điều này anh em nhận biết Linh của ĐCT. Hễ Linh nào thừa nhận Giê Su Ki Tô đã đến trong xác thịt thì đều ra từ ĐCT còn hễ Linh nào không thừa nhận Giê Su thì chẳng phải ra từ ĐCT. Đó là Linh của Anti Christ mà anh em đã nghe nó phải đến và hiện nay đã ở trong thế gian rồi” ( 1Ga 4, 1 -3 ).
Để nhận biết Chúa Giê Su Đấng Cứu Độ cũng là Đấng dẫn đường chỉ lối cho mình thì không thể không biết đến vai trò có tính quyết định của Đức Maria bởi vì Ngài chính là Người Nữ đạp giập đầu rắn Sa Tan. Đức Chúa Gie6hova có lời phán với con rắn “ Ta sẽ làm cho mày cùng Người Nữ, Dòng dõi mày cùng dòng dõi Người Nữ nghịch thù nhau, Người Nữ sẽ dày đạp đầu mày còn mày thì sẽ rình cắn gót chân Người” St 3, 15 ).
Sở dĩ nói vai trò của Đức Maria có tính quyết định cho việc nhận biết Chúa Giê Su là Đấng Cứu Dộ là vì mỗi một người trong chúng ta cần phải trải qua một cuộc chiến cam go lâu dài với Sa Tan đức lừa dối cả và thiên hạ bằng sự kiên trì nhẫn nại “ Vì ngươi đã giữ đạo của sự nhẫn nại Ta. Ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách là giờ sắp đến trong khắp thiên hạ để thử thách những người ở trên mặt đất này” ( Kh 3, 10 ).
Đạo Chúa là Đạo Đức Tin nhưng để có thể giữ vững được đức tin ấy Đức Mẹ đã ban cho chúng ta một phương thế vô cùng hiệu nghiệm để chống trả lại mưu chước của ba thù thế gian ma quỷ và xác thịt đó là thi hành ba mệnh lệnh Phatima mà trong đó việc siêng năng lần chuỗi Mân Côi hàng ngày chính là để thể hiện sự nhẫn nại và những ai có lòng nhẫn nại thì chắc chắn sẽ không bao giờ mất đi niềm hy vọng mình hằng đợi trông./.
Phùng Văn Hóa