Vai trò của giáo dân trong Giáo hội

          Giáo Hội được người ta diễn tả theo ba mô hình. Trước Vatican II, Giáo Hội giống như hình tam giác đều  mà chóp đỉnh là đức giáo hoàng. Hai cạnh bên là hàng giáo phẩm và cạnh đáy là toàn thể giáo dân. Đến Vatican 2 thì Giáo Hội không còn là hình tam giác nữa nhưng là một…hình tròn,  đức giáo hoàng  không còn trên chop đỉnh nữa  để trở thành một điểm  trung tâm. Đến thời hiện đại với đức Phan Xi Cô, Giáo Hội lại được quan niệm như là một thứ Kim Tự Tháp…lộn ngược:

          “ Nếu ta có thể dò ra hướng đi của thời giáo hoàng Phanxico thì hẳn nó  có điều gì đó liên quan đến việc chuyển dịch từ an toàn qua bạo dạn, từ việc nhìn vào bên trong  qua việc nhìn ra bên ngoài, từ việc bận bịu  với hiện trạng, lo bảo toàn các đặc ân  của ta qua việc  học để trở thành dễ bị tổn thương  nhờ thế sẽ chuyên chở được lòng cảm thương của Thiên Chúa cho những ai đang ở bên lề xã hội và Giáo hội. Chính cái không gian tối thiểu mong manh đó là nơi cái giá thực sự  của tư cách môn đệ của chúng ta dám bước đi với những người Samaritano của thời ta, y hệt như Chúa Giê Su đã làm trước chúng ta….

          …Cuộc khủng hoảng giảm giá chúng ta  đang phải đối đầu giúp chúng ta có cơ hội  giải tư khỏi những  mũ mãng, cân đai không cần thiết để tập chú vào  điều vốn là sứ mạng  cốt lõi của mình, hành động một cách tiên tri hơn, mạnh dạn hơn, ở ngoại vi nhiều hơn…

          …Một Giáo Hội biết lắng nghe, có tính  đồng nghị và bao gồm hơn: Khi chuyển sang một mô hình cộng đồng  có tính hành hương hơn.  Điều cũng cần là  phát huy một nền văn hóa gặp gỡ và đối thoại. Đức giáo hoàng Phanxico luôn nói về “ Kim Tự Tháp lộn ngược” vốn là cách triệt để  trong việc thi hành  quyền lực  về thẩm quyền. Nó không phải là phương thức từ trên ban  xuống và có tính cách trung ương tập quyền nhắc nhở mô hình quân chủ. Đúng hơn  nó là một Giáo Hội có tính  đồng nghị ở mọi bình diện trong đó mọi người lắng nghe nhau, học hỏi lẫn nhau và trách nhiệm công bố Tin Mừng. Vatican II vốn nói đến các nguyên tắc  chủ chốt: Hợp Đoàn ( Collegality ). Phụ  Đới ( Subsidiarrity ). Và cảm thức tín hữu ( Sensus fidelium ) tất cả đều  hướng tới một Giáo Hội  biết lắng nghe, đối thoại, bao gồm nhiều hơn” ( Nguồn Vietcatholic News – 21/5/2020 – Vũ Văn An – Cái nhìn bất cập  đối với viễn kiến của Vatican II về vai trò giáo dân ).

 

          Giáo Hội được hiểu như là một tam giác với đỉnh là  đức giáo hoàng  đã bị coi như là hình thức quân chủ, trung ương tập quyền  và như thế cần  bị lên án.  Đức cha  Nguyễn văn Long, giám mục Parranatta ( Úc ) trong một diễn văn đọc tại Melbourse ngày 15/11/2019 đã nặng lời kết án  Giáo Hội  như  con cá  thối từ đầu tới chân, hết sài, chỉ có nước vứt bỏ  đi để làm lại.  Nhẹ nhàng hơn  nhưng cũng cùng trong một cảm thức như thế, ngài dùng kiểu nói “ Ground Zero”  áp dụng vào Giáo Hội  hiện nay. Làm như hai ngàn năm  xây dựng Giáo Hội  nay không còn để lại được chi” ( Nguồn Vietcatholic News – 21/5/2020 – Vũ văn An đã dẫn ).

          Kết án Giáo Hội  giống như con cá thối cần vứt bỏ để đi đến việc kiến tạo một Giáo Hội Đồng Nghị. Vậy thực chất của cái GH  Đồng Nghị  ấy ra sao ?

          Trước hết là cần phong chức Linh Mục cho phụ nữ: “ Đức cha Long nhắc lại lời kêu gọi mới được  đưa ra tại THĐ vùng Amazon, Giáo Hội phải cổ vũ và dành các thừa tác vụ cho đàn ông và đàn bà một cách công bằng với việc nhấn mạnh: Phụ nữ phải được tham dự vào quyền lực đưa ra quyết định…

          ….Ngài quả quyết: Bao lâu ta còn  tiếp tục bãi bỏ phụ nữ khỏi các cơ cấu  cai quản, các  diễn trình  đưa ra quyết định và các chức năng  định chế của Giáo Hội, ta còn  tự tước đi  sự phong phú của nhân tính tròn  đầy  của mình. Bao lâu  ta còn biến các  phụ nữ thành vô hình và bề dưới  trong ngôn từ, phục vụ, thần học và luật lệ của Giáo Hội, ta vẫn còn  tự làm nghèo nàn chính mình. Trừ khi ta  thực sự tháp nhập  thiên phú phụ nữ và chiều kích nữ tính của đức tin Ki Tô giáo , ta sẽ không thể  thực sự lên tăng lực cho  đời sống Giáo Hội” (  Nguồn Vietcatholic News 21/5/2020 Vũ văn An đã dẫn ).

          Đòi hỏi phong chức Linh Mục cho phụ nữ và cho chỉ như thế  mới nâng cao năng lực  cho  đời sống Giáo Hội thì đây là một sai lầm hết sức nghiêm trọng  mà nguyên nhân đưa đến cho nó chính là vì đã không nhận ra cái năng lực  làm nên sức sống của Giáo Hội  chính là đức tin: “ Đạo ở gần ngươi, ở trong miệng ngươi và ở trong lòng ngươi tức là Đạo  Đức Tin mà chúng tôi rao giảng đây. Vậy nếu miệng ngươi nhìn nhận Giê Su là Chúa  và lòng ngươi tin  ĐCT  đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu” ( Rm 10, 8 -9 ).

 

          Đức tin là nền tảng của tôn giáo và đức tin ấy chính là tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, Đấng ở nơi mình ( Deus Abconsditus ). Chữ “ Đạo”  ở đây là để ám chỉ cho một Thực  Tại  vượt ngoài ngôn ngữ văn tự, không thể suy tư lý luận để hòng đạt tới mà duy chỉ có đức tin thôi nên gọi là Đạo Đức Tin và cũng chỉ trong…Đạo ấy  chúng ta mới có thể nhận ra vai trò của giáo dân trong Giáo Hội qua hai tiến trình sau đây:

I – Giáo Hội như Dân Riêng Thiên Chúa

          Thiên Chúa muốn thành lập một Dân Riêng để phụng sự Người  qua một Giao Ước thiết lập với tổ phụ Apraham: “ Khi Apram  được 99 tuổi thì Đức Giehova  đến cùng người và phán: Ta là ĐCT Toàn năng, ngươi  hãy đi ở trước mặt Ta làm một người trọn vẹn. Ta sẽ lập Giao Ước  cùng ngươi, làm cho dòng dõi ngươi thêm nhiều  quá bội. Apram bèn xấp mình xuống  đất. ĐCT phán cùng người rằng: Này phần Ta đây, Ta đã lập Giao Ước cùng ngươi. Vậy ngươi sẽ trở nên  tổ phụ của nhiều dân tộc. Thiên hạ chẳng còn gọi ngươi là Apram nữa  nhưng tên ngươi sẽ là Apraham. Vì Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ của nhiều dân tộc. Ta sẽ lập Giao Ước cùng ngươi cùng hậu tự ngươi trải qua các đời. Ấy là Giao Ước  đời đời hầu cho Ta làm ĐCT của ngươi và của dòng dõi ngươi” ( St 17, 1 -7 ).

          Trước  đây chúng ta vẫn cho rằng chỉ dân Do Thái mới là Dân Riêng Thiên Chúa. Thế nhưng thật sự không phải vậy. lý do là vì ngay từ ban đâu Giao Ước ký kết với tổ phụ Apraham th…dân ấy đã được dành cho mọi dân tộc, mọi quốc gia.

          Lý do  được gọi là Dân Riêng bởi  vì  có cùng chung với  nhau một đức tin   với  Apraham làm tổ phụ: “ Vậy anh em phải biết rằng  kẻ nào có đức tin  thì nấy là con cái của Apraham” ( Gl 3, 7 ).

          Những kẻ có  đức tin đều là con cái của tổ phụ và  đức tin ấy là tin vào lời hứa của Thiên Chúa cho vào cư ngụ đời đời trong Đất Hứa. Tuy nhiên  để có thể nhận được lời hứa ấy thì Dân Chúa trong thời Cựu Ước cần trải qua Cuộc Vượt Qua từ  đất nô lệ Ai cập trở về Miền Canaan dưới sự lãnh đạo tối cao của tiên tri Mai Sen. Còn trong thời Tân Ước  thì  cuộc vượt qua đó chỉ có thể thực hiện bằng việc Bỏ Mình theo  Đức Ki Tô: “ Ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình, hàng ngày vác thập tự giá mình mà theo” ( Lc 9, 22 ).

 

          Từ cuộc Vượt Qua trong thời Cựu Ước đến thời Tân Ước thì Dân Chúa cũng vẫn  được phân định ra hai thành phần rõ ràng. Thời Cựu thì có hàng Tư  Tế dưới quyền thủ lãnh của Mai Sen chuyên lo việc tế tự. Phần còn lại là toàn thể Dân  Chúa.

           Như vậy vai trò của Dân Chúa trong thời Cựu  hoàn toàn mang tính chất thụ động. Thế nhưng tính chất thụ  động  chỉ biết nghe theo sự dẫn dắt của người dẫn  đạo lại là điều cần thiết. Làm sao có thể vượt qua sa mạc đầy hiểm trở, nguy nan suốt bốn mươi năm trường nếu không có lãnh  đạo ?  Trường hợp của Mai Sen cho thấy dù ông  khi được triệu tập lên núi Si Nai  vừa mới có vài ngày thì ở nhà dân chúng đã nổi loạn,bắt Aaron phải  đúc bò vàng cho họ…thờ ( Xac 32, 1 -6 ).

          Sự lãnh đạo là vô cùng cần thiết cho  Cuộc Vượt Qua. Tuy nhiên  Cuộc Vượt Qua của dân Do Thái  không  đi đến kết cuộc  mặc dù đã  vào được đất Canaan  bởi vì đó mới chỉ là một thứ hình bóng của Nước Trời mầu nhiệm  về sau: “ Vì nếu Giao Ước thứ nhất không  chỗ trách được thì chẳng cần tìm chỗ nào cho cái thứ hai. Vì vậy Ngài trách cứ dân sự mà rằng: Kìa ngày đến  Ta sẽ cùng nhà Itsraen và nhà Giu Đa lập một Giao Ước Mới. Không phải theo như Giao Ước  đã lập với tổ phụ họ. Trong ngày  Ta cầm tay họ dẫn ra khỏi xứ Ai Cập. Vì họ không giữ  Giao Ước Ta nên Ta không kể đến họ. Chúa lại phán: Này là Giao ước Ta sẽ lập với nhà Itsraen. Sau những ngày đó, Ta sẽ để luật pháp ta trong tâm trí họ. Ghi tạc nó vào lòng . Ta sẽ làm ĐCT của chúng và chúng sẽ làm dân Ta” ( Dt 8, 7 -10 )

           Với Giao Ước Mới này thì Thiên Chúa đã đặt luật pháp vào trong tâm trí mỗi người. Vì thế tính chất Dân Riêng không còn thuộc về dân Do Thái mà đã chuyển sang cho Giáo Hội Công Giáo Tông Truyền thuộc  những dân ngoại.  Thánh Phao Lô nói với người Do Thái: “ Đạo ĐCT cần phải rao truyền cho các  ông trước hết. Nhưng vì các ông đã duồng bỏ đạo ấy, tự xét mình không xứng đáng được Sự sống Đời Đời nên nay chúng tôi xoay qua dân ngoại.  Vì Chúa có phán bảo  chúng tôi như vầy:  Ta đã lập ngươi làm sự sáng cho dân ngoại để ngươi làm Sự Cứu Độ  cho tới tận cùng trái đất” ( Cv 13, 46 -47 ).

          Như vậy  Dân Riêng nay đã thuộc về Đạo Công Giáo Tông Truyền  hiểu như đó là một thứ tôn giáo phổ quát ( Universale ) có nghĩa đó là của chung dành cho hết thảy mọi người, mọi quốc gia, dân tộc không phân biệt chủng tộc, màu da…đều được mời gọi để lãnh nhận Ơn Cứu   Độ  nơi Đức Ki Tô.

          Mặc dầu trong tính chất phổ quát như thế  nhưng nền tảng  vẫn là  Đạo Đức Tin có nghĩa là tin sự hiện hữu của Thiên Chúa Đấng ở nơi mình. Để có được đức tin vào  Đấng Thiên Chúa nội tại ấy thì nhất thiết cần  cậy nhờ  nơi Đức Giê Su Ki Tô: “ Vì chỉ có một ĐCT và chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa ĐCT và loài người” ( 1Tm 2, 5 ).

          Qua trung gian duy nhất  để đến với Thiên Chúa và Giáo Hội Công giáo Tông Truyền  chính là thể hiện mầu nhiệm của  Đức Ki Tô  ở nơi trần gian này.

II – Giáo Hội như Thân Mầu Nhiệm Chúa Ki Tô.

          Cho đến Công Đồng Vatican II, vai trò của giáo dân đã có những thay đổi đáng kể mà trước đây không hề có. Chẳng hạn việc đọc Sách Thánh trong các Thánh lễ, dạy giáo lý thiếu nhi, dự tòng, đưa Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân v.v… Cùng với những thay đổi ấy CĐ Vatican còn đưa ra một quan điểm  hoàn toàn khác đó là trước đây giáo dân chỉ  được coi như là những đối tượng cần  dẫn dắt, chăm sóc thì nay họ đã thực sự là những Ki Tô Hữu với ba phẩm  giá cao quý đó là: Tư Tế – Vương Giả và Ngôn Sứ. Nhìn nhận ba phẩm giá ấy nơi người giáo dân là việc hết sức cần thiết, bởi chỉ có như thế mới có thể đặt Giáo Hội  vào đúng vị thế của mình như là Thân Mầu Nhiệm Chúa Ki Tô.

          “ Ta là cây nho, các ngươi là cành ( nhánh ). Ai cứ ở trong ta và ta ở trong họ thì nấy kết quả nhiều vì ngoài Ta các ngươi không thể làm chi được” ( Ga 15, 5 ). Chúa Ki Tô là thân, còn tất cả  tín hữu dù là giáo hoàng, giám mục, linh mục đều là những chi thể của Chúa.  Điều này hoàn toàn khác với trước đây về Giáo Hội. Đức giáo hoàng nói riêng và hàng giáo sĩ nói  chung được coi như ở vị thế cao sang khác biệt với giáo dân và chính giáo dân cũng lại có mặc cảm tự ti về mình.  Bất cứ cái gì của các  đấng các bậc đều giỏi đều đúng…..?. Phải chăng chính vì thái cực  này  mà đã khiến Giáo Hội ngày càng trở nên sơ cứng, trì trệ  ?

          Giáo Hội nếu đặt mình vào vị thế Thân Mầu Nhiệm  thì tất cả mọi vấn đề sẽ được giải quyết cách thỏa  đáng trong tình yêu thương chân thật giữa các  chi thể với nhau. Mặt khác bởi vì cùng là chi thể trong Thân mầu Nhiệm thế nên giáo dân cần  có  nghĩa vụ và trách nhiệm đối với Giáo Hội. Nghĩa vụ  ấy là  cộng tác với giáo quyền trong việc đóng góp khả năng trí thức cũng như vật chất của mình. Tuy nhiên trên hết tất cả những đóng gióp đó là việc làm chứng tá đức tin trong  cuộc sống hôm nay: “ Các con hãy làm chứng nhân  về mọi việc đó” (9 Lc 24, 48 ).

          Làm chứng nhân cho Chúa bằng tình bác ái, yêu thương với hết thảy mọi người. Làm chứng nhân bằng cách sống trung thực, ngay thẳng  giữa cuộc đời  còn quá nhiều gian trá bất công….

          Cũng chính trong vai trò làm chứng nhân như thế  mà giáo dân là những người sống giữa đời  mới có thể  đối thoại trong tư thế là những môn  đệ của Đức Ki Tô: “ Hãy luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai  chất vấn về niềm hy vọng của anh em nhưng phải trả lời cách hiền hòa và  kính trọng” ( 1Pr 3, 15 -16 ).

          Làm sao có thể sẵn sàng trả lời chất vấn về niềm hy vọng nếu chúng ta không sống như những chứng nhân của Chúa ? Con người chỉ có thể sống và đạt được niềm hy vọng trong đời sau nếu biết gắn chặt cuộc đời mình vào Thân  Mầu Nhiệm  Chúa Ki Tô tức là Giáo Hội hữu hình của Ngài bằng sự tin yêu, vâng phục. Thế nhưng  sẽ chỉ là ảo tưởng  nếu chúng ta loại bỏ Đức Maria trong cuộc hành trình tâm linh này bởi lẽ một khi đã cưu mang sinh hạ Đức Ki Tô  thì tất nhiên cũng cưu mang, sinh hạ những chi thể  của Ngài: “ Cùng một năng lực của Đấng Chí Tôn, cùng một năng lực của Thánh Thần đã làm cho Maria sinh ra Đấng Cứu Chuộc  thì cũng làm cho người tín hữu được sinh ra trong nước tái sinh  như vậy” ( Thánh Leo In Nativ )./.

Phùng  Văn  Hóa

Chia sẻ Bài này:

Related posts