Asunta Nakade là một nữ tu Nhật bản thuộc dòng nữ tỳ Thánh tâm Chúa Giêsu, đã hoạt động ở Ấn độ trong 40 năm qua. Ngày 21/10 vừa qua, sơ đã rời tu viện ở Ấn độ để trở về quê nhà ở Nhật bản. Nữ tu Bindu Michael, người Ấn độ đã viết khi chia tay sơ Assunta: “Chúng tôi biết ơn sơ, sơ Assunta yêu quý, vì tất cả những gì sơ đã có với chúng tôi! Chắc chắn chúng tôi sẽ nhớ sự hiện diện và gương mặt tươi cười của sơ. Nhưng chúng tôi hiệp thông với sơ trong tinh thần, bởi vì chúng tôi không bao giờ quên tình thương của sơ, sự hy sinh và lòng nhiệt thành đối với sứ vụ và tình yêu dành cho Ấn độ. Tạm biệt Sr. Assunta!!!” Sơ Assunta là ai?
Asunta Nakade sinh năm 1937, trong một gia đình Phật giáo ở Tokyo, với tên gọi Keiko. Vì cha của Keiko làm việc cho một công ty thương mại nên cô liên tục phải đổi trường học mỗi khi cha cô phải di chuyển đến một chi nhánh khác của công ty, ở Nhật bản hay nước ngoài. Năm 1949, khi Keiko đang học năm cuối tiểu học ở Kobe, Keiko đã có cuộc gặp gỡ mầu nhiệm với Giáo hội Công giáo, một cuộc gặp gỡ mà qua đó cô gặp được chính Thiên Chúa. Keiko nhìn thấy hàng xóm của mình đi nhà thờ và cô đi theo họ. Đó là một nhà thờ Công giáo; bên trong nhà nguyện cạnh nhà thờ có thánh tích của thánh Phanxicô Xaviê, một cánh tay của ngài. Keiko thấy người ta xếp từng hàng dài để đi đến bàn thờ tôn kính thánh tích. Dù không biết gì về Công giáo và đây cũng là lần đầu bước chân vào một nhà thờ Công giáo, Keiko không thể nào quên được kinh nghiệm cô có ngày hôm đó. Một sự thánh thiện bao phủ cô! Sau này Keiko tin là nhờ thánh Phanxicô Xavie mà cô đã nhận được quà tặng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Khi Keiko 13 tuổi, cha cô chuyển cô đến một trường học do các nữ tu dòng Phanxicô phụ trách. Một lần nữa Keiko lại bị chìm đắm trong sự thánh thiện của các nữ tu. Cô cảm nhận từ trong đáy lòng mình niềm vui và hạnh phúc thiên đàng. Keiko bắt đầu tham dự các lớp học ngày Chúa nhật để biết về đức tin Công giáo. Cảm nghiêm sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn Keiko thật mạnh mẽ đến nỗi cô muốn dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa trong đời sống tu trì. Cô trình bày ước muốn với cha mẹ nhưng họ không hiểu được điều này vì cô chưa được rửa tội. Keiko tiếp tục việc học hỏi giáo lý và ngày 15 tháng 8 năm 1950, cùng với 3 người bạn học, cô được lãnh nhận bí tích rửa tội tại nhà nguyện của trường, với tên thánh Assunta, nghĩa là Đức Mẹ lên trời. Dù gia đình theo đạo Phật nhưng cha của Assunta không phản đối cô gia nhập Công giáo, ông nói với cô là có một tôn giáo của cá nhân là điều tốt. 2 năm sau, mẹ của Assunta cũng được rửa tội, rồi em trai của cô cũng thế. Vì muốn giữ Phật giáo như tôn giáo của gia đình nên cha của Assunta không theo Công giáo.
Năm lên 19 tuổi, từ tận đáy sâu con tim, Assunta cảm thấy tiếng Chúa gọi, nhưng không biết Chúa gọi cô ở đâu. Theo lời khuyên của một cha dòng Tên, Assunta đến thăm dòng các Nữ tỳ Thánh tâm Chúa Giêsu ở Yokosuka. Cô được một nữ tu người Nhật, lúc đó là sơ giáo nhà tập đón tiếp. Yêu thích sự nồng nhiệt và hiếu khách của các nữ tu nên Assunta trở lại nhà dòng vài lần nữa. Qua những lần thăm viếng này, Assunta được cuốn hút đến với bí tích Thánh Thể. Các nữ tu chấu Mình Thánh Chúa hàng ngày và Assunta đã yêu Chúa Giêsu. Cô muốn dâng đời mình hoàn toàn cho Chúa.
Khi tốt nghiệp đại học, Assunta bày tỏ ao ước gia nhập tu viện. Mẹ của cô không thể đón nhận ý muốn của cô và đau khổ rất nhiều vì mất đi người con gái. Nhưng cha của cô lại hiểu ý nghĩa của việc theo Chúa Giêsu và không phản đối cô, ông còn khuyên cô trung thành với việc tu trì, đừng quay lại đàng sau. Ngày 13 tháng 11 năm 1962, Assunta được vào nhà Tập; có 20 tập sinh cùng với cô. Gần 3 năm sau, ngày 11 tháng 2 năm 1965, Assunta được tuyên khấn lần đầu và ngày 15 tháng 8 năm 1972 được hạnh phúc tuyên khấn trọn đời.
Tháng 7 năm 1976, Assunta được sai đến hoạt động tại Ấn độ. Trước đó, Assunta theo học một khóa Montessori ở Dublin để chuẩn bị dạy học trong một trường dành cho các trẻ em đặc biệt. Sang Ấn độ, sơ Assunta cùng với 4 nữ tu ngoại quốc khác điều hành một trường dành cho các trẻ em có vấn đề về trí tuệ. 3 tháng đầu thật khó cho sơ để thích ứng với môi trường mới. Sơ chia sẻ: “Thật là không dễ để dạy dỗ các trẻ em này, nhưng đặc sủng của dòng chúng tôi – chầu Mình Thánh Chúa – đã là nguốn sức mạnh và niềm vui của tôi. Kinh nghiệm thần bí về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể giống với nhận thấy Chúa nơi các trẻ em này. Khi Thiên Chúa yêu các em, chúng trở nên đáng yêu. Các trẻ em đặc biệt là món quà đặc biệt Chúa ban cho tôi ở Ấn độ. Tôi đã có một thời gian tuyệt vời khi dạy dỗ và học hỏi từ các em, nhiều kinh nghiệm của tình yêu, cảm xúc và chăm sóc, từ các em.
Sơ Assunta cũng là người chăm sóc mục vụ. Sơ luôn hiện diện trong các hoạt động của giáo xứ thánh Giuse ở Juhu. Sơ thăm viếng các gia đình trong giáo xứ và khi đã 79 tuổi, sơ vẫn mang Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân. Sơ có một trái tim vĩ đại dành cho người nghèo. Sơ giúp đỡ họ, hoặc là giáo dục cho người nghèo, hoặc là chăm sóc y tế cho các bệnh nhân sida. Dân nghèo từ đảo Madh cho đến Dadar đều biết sơ. Sơ ở lại bệnh viện khi một phụ nữ nghèo được tiếp nhận. Bất cứ người nghèo nào đến Dilkhush sẽ không phải ra đi mà không được sơ mời hoặc một ly nước hay một bữa ăn nhẹ. Sơ đã giúp cho nhiều gia đình bị tan vỡ, tái định cư họ ở những nơi khác nhau và phần lớn họ đang sống hạnh phúc. Vào ngày sinh nhật của sơ hay những dịp đặc biệt, nhiều gia đình đến chúc mừng sơ và bày tỏ lòng biết ơn. Vào năm 2010, khi mừng 50 năm khấn dòng, sơ muốn có một cử hành đặc biệt chỉ với người nghèo. Nói về Ấn độ, sơ Assunta chia sẻ: “Ấn độ là miền đất của suy tư. Thần Khí hoạt động trong thinh lặng và đưa chúng tôi đến kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa và tình yêu vô điều kiện của Người. 3 chữ “C”: Contemplation, Communion và Compassion, nghĩa là: chiêm niệm, hiệp thông và thông cảm, là những ngôi sao hướng dẫn tôi.” (Asia News 22/10/2016)
Hồng Thủy