Đêm nay thành phố Bê-lem nhộn nhịp khác thường. Đèn đuốc bập bùng sáng rực một góc trời, tiếng người huyên náo gọi nhau í ới, tiếng trẻ khóc, tiếng bước chân dồn dập vội vã đi tìm nhà trọ, tiếng rao bán hàng rong náo động cả một góc trời, không khí giống như ngày trẩy hội vậy. Mà đúng là ngày hội thật. “Hoàng đế Augustus ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinius làm tổng trấn xứ Syria” (Lc 2:1-2).
Phía bên kia đồi ngoài thành Bê-lem, đêm nay chỉ là một đêm bình thường như bao đêm khác. Đám mục đồng mồ côi tụ lại với nhau sau một ngày chăn chiên vất vả. Chúng nằm lăn trên bãi cỏ trò chuyện, rồi chia ra đứa ngủ đứa thức để luân phiên canh gác đàn chiên. Thằng bé ngồi canh cho đám bạn đang say ngủ. Nó nghe ngóng những âm thanh ồn ào náo nhiệt từ thành phố bên kia vọng sang, mà cảm thấy tủi cho phận mình. Trong khi “ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi” (Lc 2:3), còn Nó thì lặng lẽ ngồi đây. Không nguyên quán, không quê nội, quê ngoại, không tên tuổi, không cha mẹ anh em, thế là chẳng cần đi đâu để khai báo. Không có tên trong sổ kê khai dân số, không phạm luật nhưng sống ngoài vòng pháp luật, có sống cũng như chết, như chưa từng có mặt trên đời này. Đó là số phận của Nó và bạn bè Nó, “những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật” (Lc 2:8).
Thằng bé ngủ gà ngủ gật. Nó nhắm mắt mơ về một mái ấm gia đình. Nó hình dung cảnh Nó đi tung tăng bên cha, tay nắm dây con lừa, mẹ bế em đi bên cạnh. Gia đình Nó đang bồng bế nhau hướng về thành phố Bê-lem để kê khai tên tuổi. Đang mơ màng, bỗng một luồng ánh sáng rực chói lòa từ trời cao xẹt xuống vụt qua tầm mắt. Bầu trời mở ra như hai cánh màn sân khấu được vén lên. Nó choàng tỉnh mở mắt nhưng vội nhắm lại vì chói quá! Tiếng nhạc ở đâu bỗng trỗi lên réo rắt du dương. Nó hoảng sợ ngồi bật dậy, tay lay lay mấy đứa bạn đang ngủ:
– Dậy, dậy mà xem!
Trước mặt tụi nó, hai vị thiên sứ sừng sững trong không trung giữa một vầng hào quang chói sáng rực rỡ. Thiên sứ mỉm cười thân thiện như trấn an. Tụi nó ngồi bật dậy, kinh hãi lùi lại run rẩy nép sát vào nhau, như muốn tìm thêm sức mạnh trước quang cảnh vĩ đại lạ lùng này. Vị sứ thần đứng bên phải bỗng cất cao giọng lảnh lót: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:10-12). Vị thiên sứ vừa dứt lời, hàng vạn thiên thần bé xíu xinh xinh hiện ra đủ màu sắc, vỗ đôi cánh chập chờn lượn bay chung quanh hai vị thiên sứ. Những đôi môi đỏ hồng chúm chím mấp máy mở ra, trong không gian vút lên lời ca thánh thót: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Lời ca bay vút lên cao như xuyên thủng chín tầng mây cho triều thần thiên quốc trên trời nghe. Rồi lời ca lại lao xuống đồng cỏ vang vọng trải dài đến tận chân trời góc biển. Quyện trong lời ca cao vút là tiếng nhạc đệm du dương réo rắt, lúc trầm lúc bổng được hoà âm bởi muôn ngàn loại nhạc cụ khác nhau. Những cái đầu của các thiên thần lắc qua lắc lại đong đưa theo tiếng nhạc trông thật đẹp và lạ mắt.
Thời gian như ngừng trôi, không gian như lắng đọng, rồi giọng ca từ từ nhỏ dần, những đôi cánh thiên thần đưa lên cao vẫy qua vẫy lại như muốn chào tạm biệt Hình ảnh các thiên thần mờ dần trong làn sương mỏng, rồi từ từ khuất dần sau đám mây. Giọng hát, tiếng đàn nhỏ dần… nhỏ dần…, nhè nhẹ im ắng… rồi từ từ im bặt, trả không gian trở về với thinh lặng như trước. Mặt trăng và các vì sao lại từ từ rõ nét trên bầu trời trong veo như không có chuyện gì xảy ra.
Đám mục đồng vẫn ngồi im như trời trồng, miệng há hốc chưa hết kinh ngạc, mắt hướng về cuối chân trời xa, nơi các thiên thần biến đi mà lòng ngẩn ngơ luyến tiếc. Rồi đứa này đến đứa kia ngơ ngác nhìn nhau không hiểu chuyện quan trọng gì vừa xảy ra. Nó ngạc nhiên lẩm nhẩm, “tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”, một tin như thế mà lại không báo cho Hoàng Đế, cho các vị quan quyền trong cung, hay các vị chức sắc học giả trong Đền thờ mà lại đi báo cho tụi nó, một đám người chăn chiên ngu dốt nghèo nàn biết? Nó loáng thoáng nhớ lại bài giảng của các vị rabbi, rằng dân tộc nó đang mong chờ một Đấng Thiên Sai đến qua lời hứa của Thiên Chúa với cha ông thời xưa. Phải chăng lời hứa bắt đầu hiệu nghiệm và Đấng đó đang đến với dân tộc nó? Mà chẳng lẽ Đấng đó lại là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Một đứa trẻ nghèo hèn cùng thân phận giống nó sao? Lạ thật!
Phải làm gì bây giờ nhỉ? Tụi nó thảo luận sôi nổi và cuối cùng bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15b). Nó sắp đặt một đứa ở lại trông coi đàn chiên, còn tất cả hối hả đi qua bên kia đồi, vào thành phố Bê-lem là thành vua Đa-vít để xem thực hư ra sao. Tụi nó vừa đi vừa bàn tán xôn xao về biến cố vừa xảy ra, cứ như là mơ, một giấc mơ tuyệt đẹp trong kiếp nghèo lầm than. Đứa thì nói thích đôi cánh thiên thần, đứa khác thì mê mẩn tiếng nhạc và lời hát du dương. Còn Nó thì thích hết khung cảnh thần tiên đó. Đẹp biết bao so với cuộc sống cơ cực nghèo hèn của Nó trong hiện tại! Bỗng bước chân tụi nó khựng lại khi nghe tiếng khóc oe oe giống như tiếng khóc của một đứa trẻ sơ sinh. Cả đám dừng theo và vểnh tai nghe ngóng. Đúng rồi, là tiếng khóc của trẻ thơ. Nhưng tại sao lại ở ngoài đồng không mông quạnh thế này? Chưa vô trong thành mà? Tụi nó lần mò đi về hướng có tiếng khóc.
Thấp thoáng dưới ngọn lửa leo lét của cái chuồng bò bỏ hoang, một thiếu phụ dáng vẻ xanh xao mệt mỏi, đang nằm thiêm thiếp bên cạnh máng ăn cỏ của bò. Bên trong máng cỏ, một trẻ sơ sinh bé tí xíu, người đỏ hon hỏn, da nhăn nheo được bọc trong lớp tã, hai chân đạp lung tung, tay quơ quơ, mắt nhắm mắt mở, miệng khóc oe oe như đòi bú. Người đàn ông, có vẻ như là người cha, đang lui cui bên đống rơm thổi lửa cho ấm em bé và người vợ mới sinh.
Người thiếu phụ ngửng mặt nhìn lên, ngạc nhiên khi nhìn thấy một đoàn khách lôi thôi lếch thếch trong bộ đồ chăn chiên hôi hám nhưng mặt mày rạng rỡ chói lòa. Không cần được mời, tụi nó tự nhiên xà xuống bên cạnh máng cỏ, tò mò nhìn vào bên trong và reo lên:
– A, đây rồi tụi bay ơi! Đúng là“một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”, đúng y chang như lời sứ thần báo với tụi mình.
Thế là đứa vuốt má, đứa nựng cằm, đứa xoa tóc em bé. Có đứa mạnh dạn cúi xuống hôn cái chụt lên đôi bàn chân bé bỏng. Thấy con khóc quá, người thiếu phụ ngồi dậy, bế em lên lòng và ngạc nhiên hỏi thăm tụi nó tìm ai? Thế là tụi nó tranh nhau kể lại biến cố kỳ diệu vừa xảy ra, những điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. “Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:18-19). Bà tin vào những điều tụi nó kể và cũng tin là tụi nó không dám thêm bớt hay cắt xén chữ nào.
Nó ngồi nhìn em bé khóc oe oe trên tay người thiếu phụ trẻ mà thèm được nâng niu bồng ẵm em bé. Nó chưa bao giờ được bế em bé mới sinh cả, chẳng ai dám đưa đứa con nhỏ xíu của mình cho một đứa trẻ dơ dáy hôi hám như nó bồng. Nó nuốt nước miếng rồi lấy hết can đảm xin được bồng em bé! Chẳng chút ngại ngần, người mẹ trẻ giao con cho Nó bế! Nó hồi hộp run run đưa đôi tay dơ bẩn chưa kịp rửa ra để đón lấy món quà thiêng liêng. Ôm Đấng Cứu Độ vào lòng mà người Nó trào dâng một niềm hạnh phúc khôn tả. Sao đứa bé này giống… người thường quá đi! Chẳng có gì ra dáng con vua chúa cả, mà chẳng có gì là giống Đức Chúa, hay Đấng Kitô gì… gì… đó, những từ ngữ to lớn mà các thiên thần vừa nói với Nó. Nó có cảm giác như đang bế đứa em ruột thịt của mình vậy. Không có khoảng cách nào giữa Nó và đứa bé mới sinh này cả. Từ cái tã quấn, tuy sạch sẽ nhưng cũng vá víu chằng chịt giống chiếc áo nó đang mặc trên người. Cái mùi cỏ khô quyện với mùi phân bò trên người em bé đâu có khác gì mùi cỏ non lẫn với mùi chiên bò trên người nó. Cùng hôi như nhau, cùng nghèo giống nhau. Nó lắc đầu không hiểu!
Nhưng Nó suy đi nghĩ lại thì thấy sứ thần cũng có lý! Đấng Cứu Độ có sinh ra trong máng cỏ, giữa trời cao đất rộng như vậy thì tụi nói mới tìm đến được. Chứ nếu Đấng ấy sinh ra trong cái nhà trọ to nhất, đẹp nhất ở Belem thì làm sao mà tụi nó tìm được? Rồi nếu cái nhà trọ to thật to đó lại có người đứng gác cửa thì chắc gì người ta chịu mở cửa cho đám chăn chiên nghèo hèn hôi hám vào? Nếu Ngài được sinh ra từ một gia đình giàu có, người hầu kẻ hạ tấp nập xung quanh thì ai mà dám cho đôi bàn tay dơ dáy của Nó rờ vào em bé? Nó từ từ hiểu ra! Ừ nhỉ, và Nó bắt đầu tin!
Người cha của baby thân thiện mở ra những gói lương thực khô mang theo đi đường và mời đám nhóc ăn. Chẳng đứa nào làm khách cả, tụi nó ùa vào ăn uống tự nhiên như đã quen biết nhau từ lâu lắm rồi. Tiếng nhai ngồm ngoàm, tiếng cười nói râm ran, quyện với tiếng khóc oe oe của con trẻ, hoà chung với tiếng hát ngây ngô của một vài đứa lập lại lời ca của các thiên thần tạo nên một khung cảnh ấm áp giữa bầu trời đầy sao. Tiếng nổ lách tách của những que củi trong đám lửa chập chờn sưởi ấm cõi lòng hiu quạnh của Nó. Nó nhắm mắt tận hưởng một bầu không khí ấm áp hạnh phúc của một gia đình có cha mẹ, anh em. Cả một hố sâu tự ti mặc cảm, những khao khát mơ ước về một mái gia đình của đứa trẻ mồ côi bỗng dưng được lấp đầy. Đêm nay sao quá kỳ diệu! Quả là một đêm huyền nhiệm! Nó không biết đêm nay quan trọng như thế nào với dân tộc Nó, nhưng Nó biết đêm nay đã biến đổi cuộc đời Nó, đêm mà Nó được vinh dự là vị khách đầu tiên được bồng ẵm Đấng Cứu Thế như ôm ấp đứa em ruột bé bỏng trên tay, đêm mà trái tim khô cằn của Nó rung lên vì cảm thấy yêu và được yêu. Đêm nay, Nó cảm tưởng như thân phận thấp hèn của Nó được nâng lên hàng thần thánh, là đêm mà Nó trở thành một trong những khán giả hiếm hoi của dàn đồng ca thiên quốc, là một nhân chứng sống động về sự giáng sinh lịch sử của Đấng Cứu Thế. Ôi, đêm huyền nhiệm!
Bình minh từ từ ló dạng nơi cuối chân đồi. Đã đến giờ chia tay rồi, tụi nó phải trở về với công việc hàng ngày của kẻ chăn chiên thuê. Nhìn đứa trẻ ngủ vùi trong vòng tay, Nó nhẹ nhàng và trân trọng đặt lên má em một nụ hôn yêu thương rồi thầm thì vào tai em những ước nguyện đơn sơ: “Ước gì con được ôm Ngài trên tay mãi mãi, ước gì lời ca tiếng hát của các thiên thần sẽ ở với con mỗi ngày, cho đến khi con được nghe lại khúc nhạc hoan ca đó trên thiên quốc.” Nó lưu luyến giao em lại cho người mẹ, với lời cám ơn tấm lòng quảng đại của bà đã chia sẻ đứa con mới sinh cho Nó bế, cám ơn người cha hiền lành tốt bụng đã niềm nở đón tiếp và thết đãi tụi nó một bữa tối no say. “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vưa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20).
Một ngày mới bắt đầu và cuộc đời Nó đã sang trang. Đôi tai diễm phúc của Nó làm sao quên được khúc nhạc huyền diệu của trời xanh, đôi bàn tay thô kệch hôi hám được bồng ẵm Đấng Cứu Thế, mắt phàm được nhìn thấy Ngài, được chiêm ngưỡng các thiên thần ca hát bay bổng chúc tụng Thiên Chúa, mũi Nó được ngửi mùi thơm da thịt non nớt của Ngài, và đôi môi Nó đã được hôn lên đôi má bụ bẫm đáng yêu ấy. Tâm hồn Nó cảm nhận một niềm hạnh phúc hoan lạc vô biên vì đã nếm trước được hương vị ngọt ngào của Thiên đàng, nơi mà Nó tin tưởng sẽ đến khi cuộc đời gian truân khổ ải này qua đi. Nó không còn oán ghét, trách móc số phận hẩm hiu này nữa, mà coi đó như là một lời chúc phúc, một cơ duyên để Nó có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu đêm nay. Giấc mơ của Nó đã trở thành sự thật ngay ở dương thế này rồi! Những giây phút nhiệm mầu thánh thiêng của đêm huyền nhiệm này sẽ mãi mãi không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Nó. Nó nhắm mắt ngây ngất, bước chân đi theo đám bạn mà hồn Nó bay bổng giữa chín tầng mây! Văng vẳng đâu đây còn vọng lên tiếng hát của các thiên thần “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).
Lang Thang Chiều Tím
Giáng Sinh 2012