1.
Chỉ cách đây vài chục tiếng đồng hồ, tôi đã gặp một đêm kỳ diệu. Đêm để ngủ, nhưng không sao ngủ được. Trên giường, tôi trằn trọc giữa một đống thời sự nhức nhối.
Ở đây lũ lụt, chết người mất của. Nơi xa bạo loạn chiếm đất chiếm quyền. Chỗ nọ biểu tình chống tham nhũng, chống bất công. Chỗ kia chửi bới nhục mạ, bạo ngôn, bạo hành.
Nhiều làn sóng bất bình phản kháng đang tràn vào xã hội và Giáo Hội. Nhiều thứ luồng gió thực dụng đang tràn vào các gia đình. Nhiều thứ âm thanh và ánh sáng nghi ngờ đang lùa vào các tâm hồn. Hầu như mọi đê bao bảo vệ đạo đức đều đang theo nhau tan vỡ.
2.
Đêm đó, tôi thức dậy lúc 2 giờ 15. Theo thói quen, tôi mở tivi xem tin tức các đài trong nước và nước ngoài. Bất chợt hình ảnh đầu tiên tôi gặp trên màn hình, là ảnh Đức Mẹ Maria ẵm Chúa Hài Đồng. Tôi rất ngạc nhiên và vui mừng. Màn ảnh lại là đài truyền hình trung ương.
Điều làm tôi ngạc nhiên tiếp theo là lời cắt nghĩa của người dẫn chương trình. Cô thuyết trình nói về Đức Mẹ đại khái: Đức Mẹ Maria ôm con mình một cách tha thiết với tất cả tình âu yếm bảo vệ, nhưng điều làm cho Đức Mẹ trở nên cao cả, chính là sự Đức Mẹ khiêm tốn và quảng đại để con mình hy sinh cho công trình cứu độ nhân loại.
Hình như cô dịch bài bình luận của một nhà nghiên cứu hội hoạ bên Đức.
Dù sao, hình ảnh Đức Mẹ và lời bình luận đêm đó đã là những nhắc nhở quan trọng cho tôi. Đêm đó lại là đêm còn đang kỷ niệm sự kiện 13-10 Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.
3.
Điều nhắc nhở thứ nhất mà tôi nhận được là tôi hãy bắt chước Đức Mẹ ôm lấy Chúa Giêsu là hạnh phúc đời mình.
Đức Mẹ tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng cứu thế, là Đấng bảo trợ trước mặt Chúa Cha, là Đấng ban cho nhân loại ân sủng, chân lý và sự sống. Chính nhờ Người, mà Mẹ thắng vượt mọi thử thách.
Vì thế, Đức Mẹ gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Thánh Phaolô quả quyết: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,39). Phương chi Đức Mẹ, Mẹ ôm chặt Chúa Giêsu, gắn kết với Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu là tất cả hạnh phúc của Mẹ.
Tôi cũng bắt chước Đức Mẹ như vậy. Tôi gắn bó với Chúa Giêsu là tôi sống trong Người, tin yêu Người, nghe Lời Người, bắt chước Người, bước theo Người. Tôi sẽ sống thế nào, để có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Sự gắn bó của tôi phải trở thành mật thiết, như cành nho gắn chặt vào cây nho (x. Ga 15,5). Gắn bó ấy thưc hiện đúng lời Chúa khuyên dạy: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
4.
Điều nhắc nhở thứ hai tôi nhận được là hãy bắt chước Chúa Giêsu về đời sống khiêm nhường nghèo khó bé mọn.
Cái gì đã làm cho Chúa Giêsu trở thành hài nhi bé nhỏ trong vòng tay Đức Mẹ? Thưa là tình yêu. Vì thương yêu loài người, Chúa muốn làm người, để ở giữa loài người. Chúa có thể ở giữa loài người, như ông vua ngồi trên ngai vàng nhìn xuống thần dân. Nhưng Chúa đã mặc lấy thân phận con người bé mọn nghèo khó, để sống như người nghèo khó, giữa lớp người nghèo khó.
Đức Mẹ Maria cũng sống đời khiêm tốn khó nghèo. Phục vụ như người đầy tớ.
Khiêm tốn khó nghèo đáng ngợi khen nhất của Chúa Giêsu và Đức Mẹ chính là sự các Ngài sống gần gũi với những người yếu đuối. Các Đấng sống giữa họ. Các Đấng có những quan hệ thân thương với họ.
Các Ngài sống khiêm nhường nghèo khó bé mọn như vậy, để dạy tôi hãy biết đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa với tâm hồn khiêm tốn khó nghèo bé mọn. Tình yêu cứu độ của Chúa là một quà tặng cao quý vô cùng. Không ai có sức hiểu nổi. Không ai xứng đáng được đón nhận. Chỉ có những tâm hồn bé mọn, tức là nghèo khó khiêm nhường bé mọn, mới được Chúa mạc khải cho ơn cực trọng ấy. Chúa Giêsu có lần đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).
Với ý thức đó, Chúa cho tôi nhìn thấy những người khiêm nhường nghèo khó bé mọn đang sống trong Hội thánh Việt Nam hôm nay. Họ âm thầm. Họ làm những việc lành nhỏ trong đời thường. Nhưng đời họ chính là những của lễ đẹp lòng Chúa. Họ được Chúa cho tham gia vào công cuộc cứu chuộc của Chúa. Chính họ được Chúa đổi mới bằng cách Chúa chia sẻ cho họ sự sống siêu nhiên của Chúa. Chính vì họ biết đón nhận ơn Chúa với tất cả tấm lòng khiêm tốn khó nghèo bé mọn.
5.
Điều nhắc nhở thứ ba tôi nhận được là hãy bắt chước Chúa Giêsu tập trung vào yêu thương trong mọi đổi mới và cải cách hiện nay.
Khi lắng nghe tình hình hiện nay trong xã hội và trong Giáo Hội, tôi không thể không giật mình vì một tiếng gọi khẩn thiết vang lên đều khắp: Hãy đổi mới. Hãy cải cách. Nếu không, sẽ không tránh được suy tàn và tiêu diệt.
Trước tiếng gọi đó đã và đang có nhiều phản ứng khác nhau.
Chúa và Đức Mẹ dạy tôi là trong lĩnh vực đời sống tôn giáo, hãy coi tiếng gọi đó là đúng đắn, cần được đáp ứng thoả đáng.
Cách đáp ứng thoả đáng nhất là hãy theo gương Chúa Giêsu đổi mới và cải cách theo mô hình yêu thương. Nội dung đưa ra đổi mới là hãy yêu thương. Luật lệ nếp sống cần đổi mới phải căn cứ vào yêu thương.
Khi đổi mới đạo thời đó, Chúa Giêsu đã lấy yêu thương làm nền tảng. Người nhấn mạnh Thiên Chúa là Tình Yêu. Người ban bố điều răn mới là yêu thương. Người bắt đầu cải cách bằng chính gương sáng đời sống yêu thương của Người.
Yêu thương của Người là đền tội thay cho kẻ có tội, là tha thứ cho kẻ lỗi lầm, là vực dậy kẻ nằm liệt trong cảnh khốn cùng, là an ủi cứu giúp kẻ khổ đau bệnh tật túng thiếu.
Chúa Giêsu đổi mới tôn giáo luật lệ bằng tôn giáo yêu thương. Cải cách đó coi dễ, mà không dễ chút nào. Nó đòi phải đổi mới cách nhìn, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đào tạo. Nó bắt con người phải sửa lại từ trong tâm hồn đến lối sống bên ngoài. Đổi mới của Chúa Giêsu đã bị chống đối. Chống đối dữ tợn nhất là từ nội bộ tôn giáo. Nhưng Chúa Giêsu vẫn dũng cảm và quảng đại yêu thương đến cùng.
Chúa khuyên tôi hãy thực hiện việc đổi mới theo gương Chúa mặc dầu phải khổ. Xung quanh tôi, nhiều người cũng đang làm như vậy. Họ ôm thánh giá như một vinh quang.
6.
Ba nhắc nhở trên đây loé sáng lên trong tôi như những tia chớp giữa bóng đêm dày đặc. Tôi cảm tạ Chúa đã nhắc nhở tôi bằng nhiều cách. Chúa dạy tôi đọc thấy ý Chúa ngay trong chính cuộc đời, cả nơi thời sự và các biến cố. Tôi cảm thấy mình mong manh yếu đuối. Đồng thời tôi thấy Chúa là vô cùng yêu thương.
Đêm đó qua đi như mọi đêm. Nhưng có những gợi nhớ sẽ không qua đi bao giờ. Tôi cầu nguyện. Như để trả lời cho tôi, Đức Mẹ làm cho tôi nhớ lại lời Sứ thần Gabriel đã nói với Đức Mẹ trong biến cố Truyền Tin: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Tôi xác tín mọi đổi mới và cải cách về đạo đức đều phải cậy nhờ vào ơn Chúa, bằng cách trở về với Chúa Giêsu, Người là tình yêu cứu chuộc loài người.
Xin cảm tạ ngợi khen Chúa muôn đời.
Gm. G.B. Bùi Tuần