Nếu Chúa muốn chúng ta hạnh phúc và dựng nên chúng ta để sống, thì tại sao Ngài lại bắt chúng ta phải chết thể lý và chịu mọi đau khổ khi mất người thân và phải chia ly?
Sophocles lưu ý trong tác phẩm Antigone của mình: “Có rất nhiều điều kỳ diệu trên thế giới, nhưng không có gì vĩ đại hơn con người… Mặc dù con người đã biết cách tưởng tượng ra nhiều phương thuốc chống lại những căn bệnh dai dẳng nhất, nhưng chỉ có cái chết là con người sẽ không bao giờ có thứ bùa ngải nào cho phép họ trốn thoát”. Thực vậy không gì rõ ràng hơn, cũng không gì phổ biến hơn cái chết.
Sự sống đời này không phải là tất cả. Cuộc sống trên trái đất này chỉ là buổi diễn tập trước khi biểu diễn thực sự. Người ta sẽ dành nhiều thời gian hơn sau khi chết ở cõi vĩnh hằng so với ở đây trên trần gian. Trần gian là một khóa học, một sự chuẩn bị, một sự huấn luyện cho cuộc sống vĩnh cửu. Đời này chuẩn bị cho đời sau.
Người ta nhiều lắm cũng chỉ sống được một trăm năm trên trần gian, nhưng sẽ sống phần còn lại ở cõi vĩnh hằng. Sự tồn tại trên trần gian của chúng ta, như cách nói của Thomas Browne, chỉ là “một dấu ngoặc đơn nho nhỏ trong một đoạn văn vĩnh hằng”. Chúng ta được dựng nên là để sống đời đời.
Kinh Thánh nói: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi” (Giảng viên 3.11) Bên trong chúng ta có một bản năng bẩm sinh khao khát sự bất tử. Đó là bởi vì Chúa đã tạo ra chúng ta theo hình ảnh của Ngài để sống mãi mãi. Mặc dù chúng ta biết rằng cuối cùng mọi người đều chết, cái chết vẫn có vẻ trái tự nhiên và bất công. Nếu chúng ta cảm thấy mình nên sống mãi, đó là vì Chúa đã đặt niềm khao khát đó vào tâm trí chúng ta!
Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo cho phép xem xét cái chết theo một cách khác, vì sự sống lại sau cái chết là nền tảng của sự sống đó. Tuy nhiên, nếu Thánh Phaolô dạy chúng ta rằng “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rm 6:23), thì Thánh Phêrô lại khẳng định rằng “Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pr 2, 24 ).
A. Tại sao vẫn đau khổ, vì cái chết?
Cái chết thân xác là một thử thách vì chúng ta được dựng nên để sống, tuy nhiên đó là điều kiện sine qua non – không thể không có – để bước vào cuộc sống vĩnh cửu vì không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà không chết: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33, 20). Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta có cái nhìn khác về cái chết thân xác mà tất cả chúng ta phải gánh chịu? Vì Thiên Chúa tạo dựng con người để sống đời đời, để sống vĩnh viễn “nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài”, nên cái chết không phải là cách Thiên Chúa chuẩn bị cho Ơn Cứu Độ qua Lịch Sử sao? Điều này được minh họa cụ thể qua dụ ngôn về hạt lúa mì: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12:24-25). Thánh Phaolô cũng giải thich: “Vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5: 15).
Cái chết vẫn không kém phần đau lòng, chính vì con người được tạo ra để sống; không phải để chia ly, mà là để kết hợp. Chính Chúa Giêsu đã khóc khi đối mặt với cái chết của bạn mình là Ladarô. Những giọt nước mắt này không chỉ là bằng chứng về nhân tính của Ngài, mà còn chứng thực rằng Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu, khóc khi đối mặt với cái chết vì Ngài không muốn điều đó. Hơn nữa, chính sự công phẫn lớn lao này, đã không biện minh được cho chính nó, mà lại còn minh chứng cho thuyết vô thần: làm thế nào để tin vào một Thiên Chúa Tình Yêu khi tôi biết rằng tôi sẽ chết và những mối liên kết mà tôi xây dựng với những người khác trong cuộc hành trình của tôi trên trần gian sẽ bị cái chết phá vỡ?
B. Thay đổi quan niệm phàm nhân của mình về cái chết
Trong sách Sáng thế có hai cây: cây biết điều thiện và điều ác mà trái của nó bị cấm và cây sự sống, trái của nó được phép ăn, ban cho loài người sự sống vĩnh cửu. Đức Tổng Giám Mục Beau, giáo phận Bourges nói: “Vì vậy, Thiên Chúa đã dựng nên con người để sống đời đời. Vậy thì, chúng ta phải thay đổi quan niệm của con người, vốn cho rằng tất cả chúng ta sẽ chết thì mới hiểu được con người dưới ánh sáng của những gì Đấng Tạo Hóa nói về con người: con người được tạo dựng để sống vĩnh cửu “nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài”. Khi rời Vườn địa đàng, phản ứng của con người là nghĩ rằng mình đang bị trừng phạt. Tuy nhiên, nếu cái chết không can thiệp, con người sẽ mãi mãi là tội nhân. Tuy nhiên, tất cả Lịch sử sau đó cho thấy rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến nỗi Ngài đã đi xa đến mức xây dựng lại mối liên hệ với sự sống vĩnh cửu để trả lại cho con người trái cây mà họ đã đánh mất trong khu vườn”.
Cũng chính trong một khu vườn mà Chúa Kitô hiện ra với Maria Mađalêna, vào buổi sáng phục sinh, giống như một Vườn Địa Đàng mới, nơi con người, sau khi được cứu chuộc bằng cái chết của Chúa Giêsu, cuối cùng được tái sinh. Đây là điều mà Thánh Phaolô Tông đồ biện giải:
“Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Chúa Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Chúa Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại” (Rm 6, 3-5).
C. Những hối tiếc phổ biến nhất được nghe trên giường bệnh:
- Những lần tôi nêu gương xấu cho mọi người làm theo.
- Sự thờ ơ của tôi trước sự đau khổ của người hàng xóm của tôi.
- Tôi đã không nói được bao nhiêu lời khen ngợi, công nhận và động viên với những người xứng đáng hoặc cần đến.
- Tôi tự nhận những thành công của mình nhưng những thất bại của mình tôi lại đổ lỗi cho hoàn cảnh.
- Tôi không tôn trọng sự vô tội của ai đó hoặc ngăn cản ước mơ của người khác.
- Tôi tiêu tiền vào những thứ không cần thiết mà tôi không bao giờ sử dụng.
- Tôi mất quá nhiều thời gian trước khi tha thứ và không đủ cố gắng để tha thứ.
- Tôi đã lợi dụng những người yêu thương tôi để đạt được điều ích kỷ.
- Tôi không hướng dẫn tốt những người mà lẽ ra tôi phải giáo dục tốt hơn, trước khi quá muộn.
- Tôi không đến thăm hoặc không dành đủ thời gian cho hàng xóm của tôi, bởi vì tôi nghĩ rằng người ấy không thú vị đủ, không có học thức hoặc không hữu ích.
- Tôi đã lãng phí quá nhiều thời gian vào những thứ vô ích… Đó là thời gian lãng phí mãi mãi.
- Tôi thích được tâng bốc ngay cả khi tôi biết điều đó là sai.
- Tôi thường phàn nàn nhiều hơn là cảm ơn.
- Tôi để cho những lời ác ý, thô tục hoặc lỗ mãng phát ra từ miệng tôi.
- Tôi tham gia vào những cuộc trò chuyện chế giễu Chúa, đức tin hoặc Giáo hội.
- Tôi chạy trốn thập giá quá nhiều lần.
- Tôi đã không giữ những lời hứa của tôi.
- Những lúc tôi có thể và nên cầu nguyện nhiều hơn, và trên hết, yêu thương nhiều hơn, nhưng tôi đã không làm như thế.
- Tôi phớt lờ Chúa Giêsu.
- Tôi đã làm tổn thương hàng xóm của tôi một cách nào đó.
- Tôi đã thiếu tình yêu. Lẽ ra tôi phải yêu Chúa và người lân cận nhiều hơn nữa.
Phêrô Phạm Văn Trung
từ: https://imitationjesuschrist.forumactif.com