Ngày xưa, thời còn học tiểu học (nay gọi là cấp I), một thời thơ ngây và hồn nhiên thật đáng yêu. Suốt 5 năm chung lớp, vả lại, Thảo và tôi lại là hàng xóm, nên rất thân nhau. Tôi hơn Thảo 3 tháng tuổi, nên chúng tôi chỉ xưng tên với nhau.
Thảo và tôi không chỉ học chung trường, chung lớp, mà còn học giáo lý chung. Thời đó, chiều nào cũng học giáo lý chứ không chỉ học giáo lý vào Chúa nhật như bây giờ. Tôi nhớ năm đó, Thảo và tôi cùng được Xưng tội và Rước lễ lần đầu, ngay hôm sau lại được ĐGM phụ tá P.X. Trần Thanh Khâm ban bí tích Thêm sức. Với tôi là rất đặc biệt khi được Xưng tội và Rước lễ lần đầu hôm trước, hôm sau lại được Thêm sức ngay.
Hồi đó, tôi hay vẽ hình vua chúa, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử, và hiệp sĩ bằng phấn trên nền nhà đất. Thảo thường sang chơi, thấy tôi vẽ cứ lại gần chọc phá tôi, có khi xóa “công chúa” và “hoàng tử” của tôi. Tôi giận quá – vì tôi rất nóng tính – nên tát Thảo một cái như trời giáng. Thảo khóc ơi là khóc. Trời lúc đó đang mưa, Thảo không về được, cứ ngồi khóc nức nở. Phải một hồi lâu sau mới hết, và tôi thấy hối hận. Lúc đó chẳng có ai ở nhà, tôi lén lấy gói kẹo mẹ mua còn để đó để bắt đền Thảo. Nhìn gói kẹo hồi lâu Thảo mới chịu cầm. Trời còn mưa nhẹ, Thảo vừa đi về vừa phụng phịu:
– Nguyên ác lắm, đánh Thảo đau quá đi, về nói bác gái à nghe!
Quả thật tôi nóng quá. Tôi ác thật. Và tôi sợ. Sợ thật. Sợ Thảo méc mẹ và sợ mẹ biết mất gói kẹo. Tôi cầu trời cho không xảy ra chuyện gì. Cả tuần sau chẳng thấy mẹ nói gì cả. Cũng từ hôm đó, tôi chẳng dám rủ Thảo đi học mỗi sáng, và Thảo cũng chẳng sang chơi như trước.
Sáng hôm đó, mẹ định lấy gói kẹo ra gói lại để đi biếu ai đó. Thấy mất gói kẹo, mẹ hỏi mà tôi cứ nói quanh, thế là mẹ mới cho tôi một trận đòn nên thân vì tội lấy đồ khi chưa được phép.
Biết tôi bị đòn, chiều hôm đó Thảo sang chơi, chắc là muốn biết nguyên nhân nhưng không dám vào, cứ thập thò ngoài cửa. Đang làm tập làm văn, thấy vậy nên tôi lên tiếng trước:
– Vào chơi, Thảo!
Thảo lẳng lặng bước vào một cách rụt rè. Tôi vội cười trấn an:
– Thảo giận Nguyên hả?
– Ai bảo…
Thảo cúi đầu buồn buồn. Đôi mắt bồ câu của Thảo hình như long lanh. Tôi vội nói:
– Cho Nguyên xin lỗi. Đừng giận nghe Thảo!
Thảo chợt ngước lên nhìn tôi và tặng tôi một nụ hàm tiếu miễn phí, rồi khẽ nói:
– Lúc đó giận lắm. Bây giờ thì… hết rồi. Thảo muốn đưa cho Nguyên cái này.
Tôi ngạc nhiên, vừa cười vừa hỏi:
– Cái gì vậy?
Thảo đi ra cửa lấy gói kẹo hôm trước tôi bắt đền vào đưa cho tôi:
– Thảo không lấy đâu. Mẹ Thảo nói vậy.
– Thảo cứ cầm đi. Không sao đâu.
– Nguyên xạo Thảo ha!
– Thiệt mà!
– Hồi sáng bác gái đánh Nguyên nè.
Tôi luống cuống như gà mắc tóc, và ấp úng:
– À… ừ… Tại Nguyên bị… điểm bốn đó.
Tôi nói dối vậy để chữa thẹn. Hẳn là Thảo cũng biết, vì Thảo học chung lớp mà. Thảo nhất định đưa lại gói kẹo cho tôi nên tôi đành… để lại chỗ cũ. Ai cũng nhận lỗi về phần mình. Dễ giận mà cũng dễ bỏ qua. Thế là huề. Cứ dễ thương mà cũng dễ ghét!
Từ lần ăn tát tới nay, Thảo “sợ” tôi hẳn. Một điều hỏi, hai điều hỏi, làm tôi đâm ngại. Nhưng nhờ vậy mà tôi bớt nóng tính hơn nhiều. Cảm ơn Thảo. Dẫu sao cũng vui vì đã “bình thường hóa quan hệ”.
Thấm thoát đã lớp Chín. Vậy là Thảo và tôi học chung suốt 5 năm cấp I và 4 năm cấp II. Thời gian qua nhanh quá! Con trai thì vẫn như thường, có khác chăng là tóc biết rẽ đường ngôi, mặc quần áo ủi. Con gái lại khác hẳn từ cách đi đứng tới cách ăn nói. Thảo bây giờ để tóc thề một suối ngang lưng, trông ra dáng một thiếu nữ, e lệ, “hay hay” sao ấy! Nhưng học chung từ nhỏ nên Thảo và tôi vẫn thân thiện như hồi nào.
Thảo dung dị, không kiểu cách, không làm dáng như các bạn cùng trang lứa. Thảo học giỏi và hiền lắm. Tôi không học giỏi bằng Thảo, nhưng tôi rất chăm học nên học lực cũng trên trung bình. Có lẽ đúng như ông bà thường nói: “Cần cù bù thông minh”.
Thi thoảng trường tổ chức mỗi lớp làm một tờ bích báo (báo tường). Tôi có nét chữ “coi được” – như các thầy, cô nói vậy – và tôi còn vẽ phỏng được các hình ảnh ở báo, nên cả lớp đồng ý giao cho tôi “trọng trách” viết và trang trí tờ bích báo của lớp.
Có lần thi đệ nhất lục cá nguyệt (học kỳ I), bài thi Văn của tôi được cô giáo đọc cho cả lớp nghe. Bất ngờ quá! Tôi mắc cở, vì hồi đó tôi nhút nhát lắm, như thỏ đế vậy. Về nhà, Thảo đòi mượn bài Văn của tôi cho bằng được. Tôi khá Văn, còn Thảo giỏi Toán. Qua những việc như vậy, tôi thấy mến Thảo, và ngược lại. Một thứ tình cảm đơn sơ, nhẹ nhàng, và trong sáng của một thời học sinh đáng yêu làm sao!
Hết cấp II, lên cấp III. Tôi đi học nội trú xa. Thảo cũng chuyển trường, nhưng gần đó. Cuối năm học lớp Mười thì đất nước thống nhất, gia đình Thảo chuyển đi nơi khác. Tôi không biết ở đâu. Riêng tôi vẫn ráng tiếp tục học, tuy có bị gián đoạn vài năm.
Không biết Thảo bây giờ làm gì. Nghe vài người quen nói hình như Thảo làm nhân viên ở một tòa soạn báo khá có tiếng. Cứ mỗi lần trời chuyển mưa, tự dưng tôi lại miên man nhớ về Thảo với cái tát “nổ đom đóm mắt” ngày đó, nét bình dị và đôi mắt bồ câu của Thảo. Nhớ ngày xưa như có chút níu kéo, lưu luyến, chưa muốn xa những gì đã xa, dù muốn hay không thì ngày xưa đã vĩnh viễn trôi vào dĩ vãng hóa thành ký ức và kỷ niệm. Không phải vì ích kỷ mà tôi chỉ muốn ôn lại những gì đẹp đẽ và dễ thương, nhất là một người như Thảo, cô bé ngày xưa ấy!
Tôi lấy ra cây viết Thảo đã tặng và viết vài dòng như để gởi cho Thảo vậy:
Tự tình cùng với thời gian
Thảo nguyên bát ngát thắm xanh một màu
Bao nhiêu kỷ niệm ban đầu
Còn trong ký ức pha màu bâng khuâng
Ngày xưa đậm nét vô thường
Như không như có… mênh mang diệu kỳ…
Tứ thời, bát tiết – đến, đi
Lòng người chộn rộn vân vi thất tình (*)
Cây viết đã theo tôi suốt mấy chục năm, dù có cũ với thời gian nhưng vẫn mới với kỷ niệm. Đặc biệt trên cây viết có khắc hai chữ Thảo Nguyên với nét bay bướm. Sự nhút nhát của tôi đã không thể hiểu ngụ ý của con gái. Con gái ký lạ quá. Con gái là một Thế Giới Mới, một Thế Giới Bí Ẩn, hiểu được con gái chẳng khác gì Kha Luân Bố (Colombus) tìm ra Tân Thế Giới (Mỹ châu). Sự hiểu muộn màng có tính tất yếu đặc thù của cái mà người ta thường gọi là tình cảm đầu đời, tình cảm tuổi mới lớn, còn Anh ngữ gọi là Puppy-Love.
Tất cả đã qua, nhưng kỷ niệm sẽ còn mãi, để rồi người ta có những lúc bâng khuâng… Ngày xưa thân ái và đẹp lạ lùng. Thời gian nhìn tới thì dài mà nhìn lại thì sao ngắn quá!
Tình cờ gặp lại mẹ của Thảo trong một lần đi lễ ở Nhà thờ Đức Bà, bác đã già ngoài bát tuần nhưng nhìn bác vẫn còn sinh khí của tuổi già. Chuyện qua lại, tôi thực sự ngạc nhiên khi bác cho biết Thảo đang là Chị Tổng (ngày xưa gọi là Mẹ Bề trên) của một dòng nữ ở giáo phận Phú Cường. Bác nói sắp công chuyện ở Bình Dương và tiện ghé thăm con gái luôn. Bác rủ tôi đi, và tôi hứa sẽ đi với bác. Quả thật, trái đất tròn. Rất tròn! Tạ ơn Chúa luôn quan phòng mọi sự và luôn yêu thương chan chứa…
Tôi chợt nhớ mà ngâm nga một bài thánh ca của thầy tôi là nhạc sư Hùng Lân: “Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi…”.
Viễn Dzu Tử
(*) Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục.
Nguồn: Lam Hồng