Ngày xưa, nhiều tông đồ là ngư dân, cách gọi bình dân là dân chài. Các tông đồ đầu tiên là ngư dân nhà nòi – cụ thể là bốn dân chài đầu tiên. Chúa Giêsu đã gọi họ khi họ đang đánh cá trên Biển Hồ Galilê. Đặc biệt là họ đi theo Ngài ngay lập tức, không so đo, không tính toán chi cả. Từ đó, họ không còn lưới cá nữa, mà họ lưới người – cứu các linh hồn về cho Chúa. Họ chỉ là những con người bình thường nhưng không tầm thường, và rồi những con người bình thường đó trở nên khác thường.
Quá khứ là khoảng thời gian đã qua, không thể làm gì được nữa, tương lai không ai biết ra sao, cũng không thể kiểm soát, chỉ có Chúa biết. Còn hiện tại thì mọi người có thể tự quyết định, tất nhiên quyết định này có sức ảnh hưởng tới tương lai – thời gian chưa đến. Khoảng thời gian đó có thể là tương lai xa hoặc tương lai gần – sẽ xảy ra hoặc sắp xảy ra, “khoảng” xa hay gần cũng khác nhau, nhưng chắc chắn không ai biết được điều gì xảy ra, có phỏng đoán hoặc ước chừng thì cũng chỉ là “đoán mò” mà thôi, không thể chắc chắn.
Tuy nhiên, có một dạng tương lai chắc chắn, chắc nịch luôn, đó là ngày của Chúa, thời của Chúa, triều đại của Chúa, Vương quốc của Chúa – và “khoảng thời gian” đó đã thực sự đến gần rồi. (Mt 4:17; Mt 26:18; Lc 9:27; Lc 10:9; Pl 4:5; Dt 10:25; Gc 5:8; Kh 1:3) Đề cập chuyện tương lai là việc của thế gian, theo khái niệm trần tục, còn đối với Thiên Chúa thì không có quá khứ hoặc tương lai – nghĩa là chỉ có hiện tại mà thôi.
Cuộc sống luôn có những điều phức tạp, thậm chí là bất ngờ, và liên quan với nhau – cả điều tốt lẫn điều xấu. Kinh Thánh cho biết: “Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơ-vu-lun và đất Náp-ta-li, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Giođan, vùng đất của dân ngoại.” (Is 8:23) Chỉ là chuyện địa lý bình thường, nhưng vẫn liên quan chuyện tâm linh. Vì Đức Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên, bắt nghèo và cho giàu, hạ thấp rồi nâng cao. (1 Sm 2:6-7) Thánh Ý Thiên Chúa luôn mầu nhiệm, không ai có thể hiểu được.
Thiên Chúa nhân lành, Ngài chỉ muốn điều tốt, không muốn điều ác cho bất cứ ai – kể cả ác nhân. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.” (Is 9:1-2) Không thể không vui mừng, bởi vì đang ở trong bóng tối mà thấy có ánh sáng chiếu soi. Tại sao lại như thế?
Ngôn sứ Isaia cho biết rõ nguyên nhân: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.” (Is 9:3-4) Nếu được giải thoát khỏi cảnh tù đày, được giải cứu khỏi cảnh nô lệ, chắc chắn niềm vui sướng đó lớn lao và khó tả, ví như Lưu Nguyễn lạc vào cõi thiên thai thì lạ lùng lắm. Phàm ngôn không đủ từ ngữ để có thể diễn tả niềm hạnh phúc kỳ diệu như vậy.
Người ta cảm thấy niềm vui sướng đó dâng cao tột đỉnh, và đặc biệt là cảm thấy can đảm hơn, như Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1) Có Chúa rồi, người ta không câu nệ hoặc e ngại bất kỳ cái gì nữa, bởi vì ngoài Chúa ra thì tất cả chỉ là rơm rác, phân tro, coi như không. Cảm nghiệm được “vị ngọt ngào” của Thiên Chúa, Thánh Vịnh gia mau mắn xác định: “Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi, mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng.” (Tv 27:4) Đó mới là hạnh phúc và bình an đích thực.
Thánh Vịnh gia cho biết lý do đơn giản: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.” (Tv 27:13) Sau khi cảm nghiệm được Chúa và được vui mừng khôn tả, Thánh Vịnh gia không thể giữ kín trong lòng mà phải lên tiếng mời gọi người khác cùng cảm nghiệm Chúa, muốn chia sẻ để người khác cũng được tận hưởng Ngài: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 27:14) Niềm hy vọng đó sẽ được mãn nguyện, và chẳng có ai phải ngậm ngùi thất vọng bao giờ.
Thế nhưng vẫn cần phải lưu ý, bởi vì Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơ-lô-e cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em.” (1 Cr 1:10-11) Tình trạng này vẫn thường xảy ra trong thời đại hôm nay, ngay trong các cộng đoàn hoặc hội đoàn. Con người dễ ảo tưởng và cho rằng mình sống đạo đức vì không phạm tội gì ghê gớm. Cái tôi dễ theo lời đường mật của ma quỷ nên ít khi chịu “lép vế” trước người khác, vì thế rất đáng quan ngại!
Người ta luôn có nhiều mưu lắm kế, với nhiều dạng “bình phong” che đậy, càng ngày càng tinh vi và càng khó phát hiện. Thánh Phaolô phân tích tỉ mỉ và nghiêm túc nói thẳng: “Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ‘Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Kitô.’ Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?” (1 Cr 1:12-13) Quả thật, đôi khi chúng ta lợi dụng Chúa hoặc nhân danh Chúa mà hành động không đúng, thế nhưng lại cứ tưởng là tốt lành. Nguy hiểm quá chừng! Người Pháp có cách nhận định khá thú vị và tuyệt vời: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác.” Nghe chừng mâu thuẫn nhưng lại hợp lý và chính xác. Thật vậy, người Việt vẫn thường nói: “Sự thật mất lòng.” Nhưng rồi liệu có tác dụng gì hay không, đó mới là điều đáng quan ngại.
Thay đổi không hề đơn giản, dù chỉ là một tật nhỏ. Quá trình thay đổi cần có thời gian, nhưng ơn Chúa có thể biến đổi ngay lập tức. Thiên Chúa có cách kêu gọi riêng cho từng người, không ai giống ai. Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu.” (1 Cr 1:17) Có lẽ vẫn có người nghĩ rằng phải “khéo nói” thì người ta mới bùi tai và nghe theo, thực ra như thế có thể chỉ là “lẻo mép” và theo kiểu “dụ dỗ” mà thôi.
Nói về Tin Mừng thì phải rõ ràng, chính xác, nghiêm túc, thẳng thắn, không vòng vo, không lải nhải kiểu lắm chuyện. Người nào không yêu sự thật thì không dám lên tiếng bảo vệ công lý, không thể hoặc không dám “chạm” vào những điều nhạy cảm, và tìm cách tránh né để khỏi “phiền” đến mình. Người đau mắt thì sợ ánh sáng, dù ánh sáng đó bình thường mà thôi.
Thiên Chúa bất biến vĩnh hằng. Kinh Thánh xác định: “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.” (Dt 13:8) Vì thế, Ngài cũng tha thiết muốn tất cả mọi người NÊN MỘT. (x. Ga 17:20-23) Nên một là duy nhất – một trong bốn đặc tính của Giáo Hội Công giáo. Sự hiệp nhất luôn rất cần thiết. Thế nhưng đôi khi chúng ta lại chia năm xẻ bảy Nhiệm Thể của Ngài bằng nhiều cách. Ai cũng cho lý lẽ của mình đúng, thế nên không chấp nhận lý lẽ của người khác. Không chấp nhận nhau nên vẫn không thể hiệp nhất, không thể “nên một” theo ý muốn của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã một lần chịu chết, Nhiệm Thể Đức Kitô vẫn tiếp tục chịu đau khổ. Có nhiều cuộc ly giáo, nhưng đáng lưu ý là hai cuộc ly giáo lớn: [1] Ngày 16-7-1054, Giáo Hội Tây phương và Giáo Hội Đông phương ra vạ tuyệt thông lẫn nhau, chia thành Công giáo và Chính thống giáo. [2] Ngày 31-10-1517, Martin Luther (linh mục dòng Augustinô, người Đức, giáo sư phân khoa thần học) khởi xướng phong trào cải cách, Luther đưa ra một luận văn với 95 điều chống lại Công giáo, rồi ly khai. Từ đó còn phát sinh hàng ngàn giáo phái khác ngày nay.
Qua trình thuật Mt 4:12-23, Thánh Mátthêu cho biết: Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơ-vu-un, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại!” Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Sách Isaia nói tới bóng tối và ánh sáng đời thường, Tin Mừng nói tới bóng tối và ánh sáng khác thường: bóng tối tử thần và Ánh Sáng Đức Kitô. Bóng tối và ánh sáng luôn đối nghịch, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bóng tối tử thần là bóng tối tội lỗi, bóng tối ma quỷ; còn Ánh Sáng Đức Kitô là ánh sáng cứu độ, ánh sáng sự sống, ánh sáng sự thật, ánh sáng công lý. Nơi nào có ánh sáng thì bóng tối bị đẩy lùi, không thể xuất hiện.
Thánh Mát-thêu cho biết: Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Chúng ta ở trong bóng tối tử thần nhưng được Chúa kéo ra và cho vào ánh sáng sự sống. Thế rồi chúng ta lại chui vào bóng tối tội lỗi. Uốn thẳng khó hơn bẻ cong, lên dốc mệt hơn xuống dốc. Do đó, Chúa Giêsu kêu gọi phải mau sám hối vì Nước Trời đến gần rồi. Ngài muốn nói đến tương lai gần chứ không phải là tương lai xa – nghĩa là cấp bách, không thể lần lữa, chần chừ, lừng khừng,…
Một lúc sau, khi đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy hai anh em Anrê và Simôn, cũng gọi là Phêrô, đang quăng chài xuống biển, vì họ là ngư phủ. Ngài bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Ngài. Rất độc đáo, vì dân chài bình thường nay trở thành dân chài khác thường – chài người chứ không chài cá nữa.
Chúa Giêsu tiếp tục đi thêm một quãng nữa, Ngài thấy hai anh em nhà Dêbêđê – anh là Giacôbê và em là Gioan. Họ đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Ngài gọi hai anh em họ. Lập tức, họ bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Ngài. Anh em nhà này từ nay cũng chỉ chuyên nghề lưới người mà thôi.
Thật lạ lùng nhưng rất tuyệt vời: cả hai cặp anh em đều có điểm chung là lập tức bỏ mọi sự và mau mắn đi theo tiếng gọi của Chúa. Đó là động thái dứt khoát cần thiết, mà muốn dứt khoát thì phải mạnh mẽ và can đảm. Đời sống thường nhật cũng luôn cần các động thái đó, lại càng cần hơn nữa đối với đời sống tâm linh. Đó là điều tất nhiên, nhưng không phải dễ hành động.
Cuối cùng, Thánh Mátthêu cho biết: “Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.” Đó là dấu hiệu cho biết Nước Trời sắp đến, nghĩa là ở thì tương lai gần. Điều gì sắp sửa xảy ra thì người ta không thể chậm trễ, phải gấp rút, càng mau càng tốt, chuẩn bị càng kỹ lưỡng càng hiệu quả.
Thật đáng quan ngại với ý tưởng của Chân phước Henry Suso: “Người ta thường mua hỏa ngục bằng một cái giá quá đắt, vì họ chịu hy sinh bản thân để làm đẹp lòng thế gian.” Ước gì tất cả chúng ta luôn biết say mê Lời Chúa, vì nhờ ánh sáng đó mới có thể biết đường về Cõi Sống.
Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí để biến đổi chúng con nên mới, đủ sức mạnh để vượt qua chính mình, đủ can đảm để buôn bỏ những gì không cần thiết, nhìn thẳng hướng chứ không ngoái lại nhìn lại phía sau, cắt đứt quá khứ để nối dài hiện tại tới tương lai, sẵn sàng và mau mắn vâng ý Ngài dù có lúc chúng con cảm thấy không thoải mái. Xin Ngài tăng lực cho chúng con và ban cho chúng con trí thông minh tâm linh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU