GIÊSU Mục Tử Nhân Lành
Tìm chiên xấu cải hóa thành chiên ngoan
GIÊSU chấp nhận chết oan
Để chiên được sống bình an, dồi dào
Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH, là ngày cầu cho ơn thiên triệu dâng hiến – ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Ngày xưa, Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Và Ngài nói với môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9:37-38).
Vì thương xót, Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực. Muốn được vậy thì chắc chắn phải “đi qua” Đức Giêsu Kitô.
Thật vậy, Đức Giêsu Kitô là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống Viên Mãn (Ga 10:10). Đức Giêsu Kitô không chỉ nuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của người chết (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38).
Nhưng nếu muốn được sống viên mãn thì mỗi cành-nho-chúng-ta phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền nhựa-yêu-thương (Ga 15:1-17). Cây có nhiều nhựa thì có nhiều sức sống, con người cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh, sự sống từ Thiên Chúa.
Được tái sinh bởi Đức Giêsu Kitô, người ta biến đổi hoàn toàn để trở thành một con người mới. Hồi đó, sau khi Chúa Giêsu đã phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, và lắng nghe những lời ông nói: “Toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2:36). 37 Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các Tông Đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Biết hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành biết bao, vì chứng tỏ tâm hồn đã thực sự biết sám hối lỗi lầm, biết khao khát điều tốt, và biết ước muốn hướng thiện!
Nghe họ hỏi, ông Phêrô đáp: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi” (Cv 2:38-39). Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ” (Cv 2:40). Những ai đã đón nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được vào Nước Trời (Ga 3:5). Ngay hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.
Ngày nay có phương tiện định vị toàn cầu giúp người ta không lạc lối, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn mực nhất. Người nào nhận biết được như vậy thì sẽ an vui tín thác vào Ngài, để Ngài quan phòng và tiền định, người đó xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).
Người đó cũng luôn an tâm vững chí, và hạnh phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Thật vậy, ai tuân giữ lời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải chết (Ga 8:51).
“Lòng nhân hậu và tình thương Chúa” đó không hề xa lạ, vì đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ, vì không ai không là tội nhân, và vì thế mà không ai lại không cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Hằng ngày, khi cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi, chúng ta nhiều lần kêu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn”. Nhưng cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm nên chúng ta không thực sự chú ý hoặc không cảm nhận lời cầu tha thiết như vậy.
Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, vẫn có đủ thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục) theo bản tính phàm nhân. Do đó mà chúng ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay thôi. Đôi khi còn có những điều trái tai, gai mắt, và chúng ta phải “vượt qua chính mình”. Thánh Phêrô nói: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban” (1 Pr 2:20). Thật vậy ư? Chúng ta hãy nghe Thánh Phêrô giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2:21-23). Cái khó là “im lặng” và “phó thác” cho Chúa.
Chúa Giêsu là Nguồn Sống nhưng đã chịu bị giết chết, không phải Ngài đáng bị như vậy, mà Ngài chịu thay chúng ta, Ngài chịu chết để chúng ta có cơ hội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 Pr 2:24-25). Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, nghĩa là chúng ta cũng phải dám chết cho tội lỗi của chính mình – vàtội lỗi của người khác, nhờ đó mà được sống lại và được sống viên mãn trong Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.
Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống, đồng thời Ngài còn là Cửa (Ga 10:9), chính Cửa này dẫn vào Nguồn Sống Viên Mãn của Thiên Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10:1-5). Nghe Đức Giêsu nói vậy, người ta không hiểu Ngài nói gì.
Tất nhiên không chỉ khó hiểu đối với những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay, thậm chí có khi chúng ta còn không muốn hiểu. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt”, nhưng thực ra hiểu rồi thì mới cảm thấy “đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất cần thiết của Mục Tử Nhân Lành. Mục tử đó phải thể hiện lòng thương xót và dám liều mạng vì đoàn chiên. Nói đến lòng trắc ẩn, và đặc biệt trong Tháng Hoa, chắc hẳn nhiều người còn nhớ gương yêu thương sáng chói của Thánh tử đạo Lm Maximilian Maria Kolbe (*).
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, Ngài yêu thương mọi người, và Ngài chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18), nhất là những người được lãnh nhận tác vụ linh mục, họ cũng PHẢI là những mục tử nhân hậu, PHẢI biết phục vụ chứ không hưởng thụ (Mt 20:28), thế nhưng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương. ĐGH Phanxicô đã từng cảnh báo các giám mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tượng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền bạc, và những thoả hiệp theo tinh thần thế gian”. Có lần ngài nhấn mạnh rằng giám mục là người được chọn để phục vụ một Giáo hội duy nhất, vì thế không được tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo hội, và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục đó đang ngoại tình”. Gương “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst (người Đức) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10-2013. Chắc hẳn Mục Tử Giêsu buồn lắm!
Nhắc tới những điều “nhạy cảm” như vậy, có những người “nhột” (chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “thức giấc”. Chúng ta chỉ tâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì có ai lợi gì không, hay lại chỉ dìu nhau vào con đường mê lầm? Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối, đừng biện hộ vì thế này hoặc thế nọ, và cũng đừng ảo tưởng “chiếc bánh vẽ” nào đó!
Cũng vậy, khi đọc Lời Chúa thì người ta chỉ thích đọc những câu “vừa ý mình”, tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa”, vì có những câu “chạm” mạnh quá, nên họ cảm thấy… “nhột” lắm!
Lời Chúa là thế, có lúc khiến chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc làm chúng ta đau điếng. Nhưng có dám chịu “nỗi đau” đó thì mới khả dĩ “bừng cơn mê” mà sớm thành nhân. Chỉ có thuốc đắng mới “đã” tật!
Là Mục Tử Nhân Lành, là Chúa Chiên Lành, Đức Giêsu xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:7-10). Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên. Ai không là chủ chiên nhân hậu như Đức Giêsu Kitô thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà thôi. Đi qua Cửa đó sẽ phải chịu “đau nhức” lắm đấy!
Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô có mơ ước và cũng là lời kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep 3:17-19). Trong lời kinh hòa bình, Thánh nghèo khó Phanxicô Assisi đã nguyện ước thực tế mà sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Và ngài tin chắc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Đó chính là sự-sống-viên-mãn của những người tin thật Đức Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-nhập-thể-làm-người, là Con-Thiên-Chúa-chịu-chết-và-phục-sinh.
Máu có màu đỏ tươi, rất đẹp, nhưng cũng rất đắt giá. Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta bằng Giá Máu đó! Chính nhờ Giá Máu đó mà chúng ta được phục hồi cương vị làm con và được hưởng sự sống viên mãn.
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và hằng sinh, xin cho chúng con biết quên mình mà dấn thân vì chân lý, vì công lý, và vì tha nhân – nhất là vì những người hèn mọn. Xin cho chúng con được sự sống viên mãn của Ngài, biết thể hiện sự sống đó bằng hành động cụ thể chứ không bằng lời nói suông, thực sự trở nên “Kitô khác” chứ không “khác Kitô”. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Thánh Maximilian Maria Kolbe, linh mục Dòng Phanxicô (O.F.M.), sinh ngày 8-1-1894, tử đạo ngày 14-8-1941 tại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã hồi thế chiến II. Ngài được tuyên xưng là vị tử đạo bác ái, vì ngài đã động lòng trắc ẩn mà chịu chết thay cho một tử tù còn vợ con. Ngài được Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 10-10-1982, ngài được chọn làm thánh bổn mạng của những người nghiện ma túy, các tù nhân chính trị, các gia đình, các ký giả, và phong trào bảo vệ sự sống. Thánh GH Gioan Phaolô II đã tôn ngài làm “Thánh Bổn Mạng của Thế Kỷ Khó Khăn Chúng Ta”. Thánh Maximilian đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, do đó ngài được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ. Cái chết của ngài là đỉnh điểm của sự sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ, ngài được gọi là “Gã Khờ của Đức Mẹ”, vì ngài đã làm mọi thứ vì Đức Mẹ.