Sách tiên tri Mikha nhắc đến Bêlem vì nơi đây sẽ sinh Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc người có từ nguyên thủy tự muôn đời. Tin Mừng Luca cho thấy bà Isave khi được Đức Maria đến thăm đã thốt lên: “bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm”. Những lời trên liệu có thể áp dụng cho Đức Giêsu, và có giúp người ta hiểu Đức Giêsu là ai không?
I. Đức Giêsu là Giêsu Nazarét, con ông Giuse, con bà Maria
Với những người ở Bêlem, thánh Giuse và Đức Maria là những người bình thường như bao người nhà quê nghèo khác. Chính vì thế, họ không đối xử với Đức Maria và thánh Giuse một cách đặc biệt: hai ngài đã phải ra chuồng chiên cừu trú ngụ qua đêm. Đức Giêsu đã được sinh ra trong chuồng chiên cừu. Với họ, chả có gì đặc biệt khi cặp vợ chồng nghèo Giuse Maria trở về quê và không có chỗ trú ngụ.
Không biết đêm hôm ấy, đêm Đức Giêsu được sinh ra, trời có sáng hơn mọi đêm không? Có ai trằn trọc mất ngủ vì một lý do “không biết” nào không? Hay tất cả vẫn cứ bình thường, vẫn là một ngày như mọi ngày? Biến cố Đức Giêsu được giáng sinh, có lẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với Đức Maria và thánh Giuse, và sau đó đối với một số mục đồng đã tin lời sứ thần; còn với tất cả những người khác, có lẽ tất cả đã như thường.
Khi Đức Giêsu đi rao giảng, và đã làm được một số điều đặc biệt, người ta cũng vẫn xác nhận Ngài là “Giêsu con bà Maria” (Mc.6, 3), “Giêsu con ông Giuse” (Lc.4, 22). Các người bị thần ô uế ám thì gọi Ngài bằng “Giêsu Nazarét” (Lc.4, 34). Với các tông đồ và những chị phụ nữ hôm biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, Ngài cũng chỉ là một người công chính bị nạn! Với những biệt phái tư tế kinh sư, Ngài cũng chỉ là một đối thủ cần loại trừ, và họ đã thành công ở biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá. Với những người không là Kitô hữu hiện nay, có lẽ Đức Giêsu cũng chỉ là con người đặc biệt hơn một người bình thường chút xíu; nhưng cũng chỉ là vậy, Ngài cũng chỉ là một người như bao người khác.
II. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể
“Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi tới viếng thăm!” (Lc.1, 43). Từ ngữ “thân mẫu Chúa tôi”, theo bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh, khác với từ ngữ “Mẹ Thiên Chúa” như trong sách bài đọc dịch. “Anh em gọi Thầy là Thầy là Chúa là đúng rồi… vậy nếu Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 13-14). Từ ngữ “Chúa” ở đây có thể chỉ đơn thuần được hiểu như một người làm chủ, người đứng đầu (Thiên Chủ, Thiên Chúa).
Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha; nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (Nicea năm 325); và nhờ đó hiểu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Ephêsô năm 431). Đi với khẳng định này công đồng Nicea đã kết án “hạ phục thuyết” của Arius chủ trương rằng Đức Giêsu thấp kém hơn Thiên Chúa.
Kitô hữu hiểu Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, nhưng vẫn tin “chỉ có một Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Cái khác nhau là ba ngôi vị. Kitô hữu cố gắng tránh hiểu ba ngôi như là ba Thiên Chúa. Nơi con người, ba người (ngôi vị) khác nhau nhưng vẫn cùng một bản tính người; còn nơi Thiên Chúa, ba ngôi không phải là ba Thiên Chúa nhưng chỉ là một Thiên Chúa.
III. Đức Giêsu là ai?
“Người ta bảo Con Người là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt.16, 13) Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Cả với câu này, người ta vẫn giải thích chữ Đức Kitô theo nghĩa rất bình thường: Môsê, Đavít, Kyrô … cũng đều là đức Kitô cả. “Con Thiên Chúa” cũng có thể được hiểu theo nghĩa rất bình thường: các thiên thần, các người công chính,… cũng có thể được gọi là con Thiên Chúa. Chỉ với câu này, người ta không buộc phải hiểu Đức Giêsu là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Khi người ta hiểu Đức Giêsu nhận mình là Con đồng bản tính với Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, thì Ngài phải chết vì đó là tội vô cùng lớn: phạm thượng: là người mà cho mình là Thiên Chúa (Ga.10, 33).
Nhờ những đối kháng dẫn Đức Giêsu tới cái chết, người ta mới hiểu rằng Đức Giêsu ý thức mình là Thiên Chúa, và người ta cũng hiểu Ngài khẳng định như vậy, nên người ta có đủ lý do để kết án Ngài mà không cần phải “cáo gian” nữa! “Máu nó sẽ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25); nếu không ý thức rõ tội của Đức Giêsu, thì người Do Thái không dám nói những lời như thế. “Chúng tôi có luật, mà chiếu theo luật thì nó phải chết, vì nó là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19, 7). Từ ngữ “Con Thiên Chúa” ở đây phải được hiểu là Con “đồng bản tính” vì nếu không, đâu có đủ lý do để kết án tử hình Đức Giêsu. Nếu một người công chính được gọi là con Thiên Chúa, thì tội của Đức Giêsu đâu có là gì mà phải kết án tử hình Ngài.
Đức Giêsu là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa, Đấng “ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62). Người Do Thái kết án tử hình Đức Giêsu thật là chính đáng, vì Đức Giêsu đã nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa. Nhờ lời của Đức Giêsu, và nhờ án tử hình được công nghị Do Thái tuyên cho Đức Giêsu, giúp Kitô hữu thấy rõ chân tướng của Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa, là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài đúng là Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Khẳng định của các công đồng Nicea và Êphêsô đã phản ánh đúng đắn niềm tin của Kitô hữu sơ khai, cũng như phản ánh đúng ý thức của Đức Giêsu về chính Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sứ điệp Đức Giêsu mang lại cho thế gian trong ngày lễ Giáng Sinh là gì?
2. Có sự liên hệ nào đó giữa sự bình an trong tâm hồn con người, sự an bình của xã hội và nền hòa bình trên thế giới không?
3. Chỉ dựa vào Kinh Thánh, bạn có thể “chứng minh” Đức Giêsu là Thiên Chúa không?