CHÚA VỀ THIÊN QUỐC SÁNG NGỜI VINH HIỂN
CON Ở THẾ TRẦN KIÊN VỮNG CHỨNG NHÂN
Triết gia Henri Frédéric Amiel (1821-1881, Thụy Sĩ) nhận định: “Sự không chắc chắn là nơi trú ẩn của niềm hy vọng”. Vì không chắc hoặc chưa chắc nên mới cần nuôi dưỡng niềm hy vọng. Nhưng đó là đối với cuộc sống đời thường. Còn đối với cuộc sống tâm linh có phần khác: Tùy vào cách sống của mình mà có thể chắc chắn được về trời hay không, còn Chúa Giêsu hứa sẽ trở lại đón chúng ta về trời thì đó là điều chắc chắn tuyệt đối.
Đối với các Kitô hữu, niềm hy vọng về trời với Chúa Giêsu là điều cao xa – với ý cao thượng, cao cả, chứ không viễn tưởng hoặc mơ hồ. Niềm hy vọng đó là niềm khao khát cháy bỏng và mạnh mẽ, vì thế mà Kitô hữu không ngại từ bỏ mình và chấp nhận mọi thua thiệt ở trần gian này – kể cả sinh mạng của mình, mặc dù cuộc sống rất quý giá.
Là văn sĩ, họa sĩ, kiêm khoa học gia, nhưng Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, người Đức) nhận định rất chí lý: “Chín điều cần thiết để sống thỏa nguyện: Đủ sức khỏe để biến công việc thành lạc thú; đủ tiền bạc để đáp ứng nhu cầu bản thân; đủ sức mạnh để chống lại và vượt qua nghịch cảnh; đủ trang nhã để thú nhận tội lỗi và bỏ chúng lại sau lưng; đủ kiên nhẫn để lao lực cho tới khi đạt được điều gì đó tốt đẹp; đủ khoan dung để thấy được điểm tốt ở hàng xóm; ĐỦ YÊU THƯƠNG để khiến mình có ích cho mọi người; ĐỦ ĐỨC TIN để biến lời răn của Chúa trời thành hiện thực; ĐỦ HY VỌNG để vứt bỏ nỗi sợ hãi bất an hướng về tương lai”. Chín “cái đủ” ấy thật tuyệt vời biết bao!
Chúa Giêsu về trời trước, nghĩa là Ngài xa chúng ta một thời gian – chỉ xa theo dạng hữu hình mà thôi, vì chính Ngài vẫn ở cùng chúng ta cho tới tận thế – cụ thể là Thánh Thể. Tất nhiên cuộc chia tay nào cũng đầy lưu luyến, bịn rịn, đôi khi còn buồn thảm, và người ta luôn hẹn gặp lại nhau. Nhưng cũng có những cuộc chia tay khiến người ta vui mừng và hy vọng, đặc biệt nhất là cuộc chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vào ngày Ngài về trời. Chúng ta vui mừng và hy vọng, vì chính Ngài đã hứa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:1-3). Lời hẹn “tái ngộ” của Chúa Giêsu là sự thật chắc chắn.
Khi hẹn gặp lại nhau, người ta luôn nôn nóng chờ đợi tới ngày đó – nhất là đối với đôi nam nữ yêu nhau mà ở xa nhau. Vương quốc của Chúa Giêsu không phải ở thế gian này, nhưng người ta lại tưởng Ngài là nhà cách mạng, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Do đó, người ta đã hỏi dò Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1:6). Thế nhưng không phải vậy và không là vấn đề, rồi Ngài xác định: “Anh em KHÔNG CẦN BIẾT thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là CHỨNG NHÂN của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7). Vấn đề quan trọng là sống đời chứng nhân chứ không là gì khác.
Và rồi vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt họ, có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, về phía Ngài đi mất hút, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Thật mà như mơ, mơ mà là thật. Nhớ Thầy và thương phận mình lắm, nhưng hy vọng rất nhiều.
Ôi thật lạ lùng quá chừng! Đối với phàm nhân, kể ra thì cũng thấy buồn khi Ngài đã đi xa, thế nhưng chúng ta không hề thất vọng, vẫn tràn trề hy vọng, và chúng ta cũng chẳng mồ côi. Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, và Ngài còn gởi Chúa Thánh Thần đến nâng đỡ chúng ta từng ngày, Đấng ấy là Đấng Bảo Trợ – Ngôi Ba Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đi mà chúng ta không hề buồn chi. Hy vọng tràn đầy, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Ôi, thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa như vậy.
Vui tiếp vui, mừng nối mừng, niềm hy vọng như được kéo dài và lan tỏa kỳ lạ: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Cuộc chia tay nào cũng mặc vẻ buồn, không nhiều thì ít, dù mặc nhiên hoặc minh nhiên, nhưng cuộc chia tay của Chúa Giêsu với chúng ta lại không u buồn, ngược lại rất hân hoan.
Đất thấp, trời cao. Khác mà không lạ. Xa mà vẫn gần. Thánh Phaolô cho chúng ta biết: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh” (Dt 9:24-25). Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (Dt 9:26-28).
Chính vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh” (Dt 10:19). Chúng ta chẳng là gì, hoàn toàn bất xứng, thế mà được diễm phúc vô cùng, bởi vì chính Chúa ban cho “quyền sống” đó. Và còn hơn như thế nữa, cũng chính Người đã “mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa” (Dt 10:20-21). Vì thế, Thánh Phaolô khuyên các tín nhân: “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10:22-23). Đối với Thiên Chúa, tất cả đều tuyệt đối. Bất cứ ai có đức tin càng mạnh và đức mến càng sâu thì càng được Ngài độ trì.
Đức tin là điều không thể đụng chạm nhưng có thể cảm nghiệm, nhưng cần phải cụ thể hóa bằng việc làm, nếu không thì đó chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Sống đức tin là hành động cần thiết, luôn phải kiên trì và không ngừng canh tân. Vì sống đức tin là mối phúc đặc biệt mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Đức tin sống nhờ “hơi thở” yêu thương. Sống đức tin là thể hiện đức tin một cách sống động và cụ thể. Sống đức tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ chút nào và phức tạp lắm, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát. David Coperfield có biệt tài ảo thuật thế nào cũng chẳng hơn chúng ta: Là con chiên hiền lành khi vào trong nhà thờ, nhưng hóa con cọp dữ dằn khi ra ngoài nhà thờ. Đúng là “siêu” thật!
Chúa Giêsu nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà vắng bóng đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu khoảng buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, thế thì chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo một cách chân thành đúng nghĩa, tích cực chứ không chỉ theo luật buộc những điều tối thiểu (đi lễ Chúa Nhật, xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh).
Giữ đạo không hẳn là giống như sống đạo – giống mà khác. Sống đạo là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì chính Ngài đã truyền lệnh: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Và chắc chắn mệnh lệnh này không miễn trừ bất kỳ ai.
Ngày ấy, khi Chúa Giêsu chia tay các môn đệ để về trời, cuộc chia tay không buồn thảm mà lại chứa chan niềm hy vọng: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời. Thầy đi rồi!
Thầy về trời thì trò phải vào đời, không thể khác được. Thánh Luca tường thuật rõ ràng: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:52-53). Đức Kitô chịu chết nhưng đã phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời để vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hy vọng đích thực và niềm hạnh phúc khôn tả đối với các tín nhân.
Chúa Giêsu đã hẹn “see you again” với chúng ta, thế thì lẽ nào chúng ta lại không muốn hẹn tái ngộ với Ngài? Chắc chắn chúng ta cũng hẹn gặp Ngài để đoàn tụ tại Quê Nhà – nhưng trong ngày sum vầy đó, hy vọng chúng ta không bị xếp đứng bên bầy dê lông đen ngòm hoặc xám xịt, mà được xếp đứng bên đàn chiên lông trắng toát.
Lạy Thiên Chúa tối thượng duy nhất và giàu lòng thương xót, xin ban thần khí can đảm để chúng con sống đạo và thể hiện đức tin trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống tạm này. Để nhờ đó, chúng con chắc chắn được về trời đoàn tụ với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Mẹ cùng chư thần chư thánh, sau khi chúng con hoàn tất nhiệm vụ sống nơi trần gian. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU