NGƯỜI MÙ MÀ DẪN ĐƯỜNG ĐƯỢC SAO?

Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước rao giảng lòng yêu thương kẻ thù và không lên án kẻ khác, đó là hai đặc điểm thể hiện rõ nhất sự tin cậy nơi Thiên Chúa. Nhưng làm thế nào để chúng ta học được một thái độ như vậy và thực hành nó? Về vấn đề này, bản văn Tin Mừng hôm nay trả lời bằng ba trình thuật mà thánh Luca kết hợp lại với nhau. Đây là những câu chuyện dụ ngôn, một thể loại đã được sách Huấn Ca đánh giá cao trong bài đọc thứ nhất, và được “giải mã” bằng hình ảnh: đôi khi người kể chuyện đưa ra áp dụng, đôi khi ông để người nghe tự giải quyết.

  1. Cọng rác và cái xà.

Được đưa ra mà không cần áp dụng, dụ ngôn này là của người Do Thái; trong số những dụ ngôn khác, dụ ngôn này được gán cho cho Rabbi Tarphon, vào cuối thế kỷ thứ nhất. Dụ ngôn này nói rằng bạn không thể sửa lỗi người khác nếu bạn không tự sửa mình trước. Nếu không, người ta chỉ đơn giản đóng một màn kịch giả dối mà thôi: đó là ý nghĩa của từ đạo đức giả vốn được đúc kết ở đây bởi thứ tinh thần giả dối. Do đó, hình ảnh này làm sáng tỏ câu chuyện dụ ngôn về người mù dẫn đường bằng cách mời gọi cần phải có sự sáng suốt và sự hoán cải cá nhân bởi vì nếu không có điều đó, người ta không thể dẫn đường cho người khác.

Nếu chúng ta muốn hướng dẫn ai đó mà bản thân lại kém hiểu biết thì chỉ dẫn đến thảm họa. Điều này áp dụng cho ai? Luca trả lời bằng một con đường vòng, ông trích dẫn một khẩu hiệu xuyên suốt các sách Tin Mừng và liên quan đến mối quan hệ Thầy / Môn đệ; Luca khẳng định: người môn đệ được “trang bị”, được huấn luyện, là người có thể dẫn đường giống như thầy của mình. Chúng ta cần hiểu rằng chúng ta phải luyện tập cách cư xử nhân từ của chính Chúa Giêsu nếu chúng ta muốn dẫn lối cho người khác. Không nghi ngờ gì nữa, Luca nhấn mạnh vào điểm này, như ở đầu chương 6 này, ngài đang nghĩ đến những “thầy dậy” (διδάσκαλος  theo tiếng Hy Lạp), vốn chịu trách nhiệm đảm bảo việc giảng dạy trong cộng đoàn: “Có mấy người Pharisêu nói: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày sabát?” (Luca 1: 2).

Một người mù có thể dẫn đường một người mù khác không? Mọi người đều hiểu rằng để dẫn đường, bạn phải nhìn thấy rõ ràng, bạn phải, như người ta thường nói, “biết rõ nơi bạn đang bước tới”. Đó là điều hiển nhiên, vậy mà trong đời sống tâm linh, chúng ta thường quên mất qui luật đầy lẽ thường tình này.

Một người mù và một người mù khác, là hai người bình đẳng, bình đẳng trong mù quáng, ngu dốt; Sư phụ và đệ tử, vẫn là hai người bình đẳng, khi đệ tử đã học được tất cả những gì sư phụ truyền đạt cho mình, thì họ bình đẳng về kiến thức. Trong cả hai trường hợp, cả hai đều không đủ điều kiện để hướng dẫn người kia. “Người dẫn đường”, “Vị Thầy”, những thuật ngữ này được tìm thấy trong Mátthêu 23,8-1 1. Về phần người mù, thuật ngữ này xuất hiện trong Mátthêu 15,14. Trong Mátthêu, những chủ đề này được sử dụng trong cuộc tranh cãi chống lại những người Pharisêu, những người tự đặt mình làm người dẫn đường, tiến sĩ và thầy dậy. Bây giờ, trong Mátthêu 23,chúng ta được nói rằng không ai có thể tự đặt mình làm người dẫn đường hoặc làm chủ. Chỉ một mình Thiên Chúa, và Chúa Ktô, được trao quyền làm điều này. Bằng cách đưa những văn bản này ra khỏi bối cảnh luận chiến của chúng, Luca, vốn không nhắm nói với người Do Thái Palestine, đã mang lại cho những văn bản này một phạm vi rộng lớn hơn. Không ai trên thế giới này có thể lấy ý chí và quan điểm của mình thay vào tự do của người khác; chúng ta không được phép bắt người khác phải đi trên con đường của riêng chúng ta. Ngay cả cha mẹ vốn sinh ra và dạy dỗ con cái của họ cũng không được quyền làm như thế.

Muốn thấy rõ những gì nơi người khác, thì cần phải thấy rõ nơi chính mình và phải làm trong sạch cõi lòng và tinh thần của mình. Thật sự người ta không thể hướng dẫn người khác một cách lành mạnh khi người ta luôn nung nấu trong mình sự tức giận hoặc trả thù. Chúng ta không thể hướng dẫn người khác khi, chỉ vì tự hãnh, chúng ta tiếp đón họ như một kẻ cả, ngồi trên cao.

Nhìn lại mình trước khi nhìn người khác là điểm cơ bản của đời sống huynh đệ, là nơi chúng ta giúp đỡ nhau trên đường đến với Chúa. Rất dễ dàng nhìn ra lỗi của người khác và chất vấn họ với lý do lớn lao là cần phải thay đổi thế giới. Đối với Thiên Chúa, muốn thay đổi của thế giới, chỉ cần bắt đầu bằng sự thay đổi chính chúng ta, hoán cải chính mình.

Chúng ta hãy đọc kỹ Tin Mừng, Chúa Giêsu không sai các tông đồ đi “cải đạo” người khác từ người sai thành người đúng, Ngài chỉ sai họ đi mang Tin mừng cứu rỗi, và khi Ngài nói chuyện với đám đông, Ngài không nói với họ “Hãy đi và sửa lỗi những người khác”, nhưng Ngài nói với họ “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy Sám Hối và tin vào Tin Mừng!” (Mc 1,15)

Chỉ có sự thật và sự hoán cải cá nhân mới có thể khiến chúng ta trở thành nghệ nhân của tình yêu và chỉ có tình yêu mới có thể cải thiện được thế giới. Chỉ có tình yêu thương mới có thể mở ra con đường dẫn đến trái tim của Thiên Chúa và dẫn đến sự sống vĩnh cửu.

Không bao giờ dễ chịu khi thấy lỗi của chính mình, nhận ra lỗi của mình, và thường thì chúng ta muốn người khác phải chịu trách nhiệm về những lỗi lầm của chúng ta. Chúng tay rất thường hay đổ lỗi cho người khác. Ở đây Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng lừa dối chính mình, đừng lừa dối Thiên Chúa. Sống và làm theo theo sự thật trong cuộc sống của chúng ta là điều cần thiết để phát triển, thăng hoa, để tìm thấy sự bình an trong nội tâm, bình an với người khác. Chỉ trong tình yêu, chúng ta mới có thể đón nhận người khác vì chính lợi ích của người ấy và chúng ta cũng có thể dẫn lối cho người ấy đến hạnh phúc. Nhưng liệu chúng ta có đủ can đảm để dừng lại và nhìn vào cõi lòng của chính mình trước không? Liệu chúng ta có đủ can đảm để cho phép mình được Chúa huấn luyện trong sự thật không?

  1. Cây nào trái ấy.

Sự so sánh có hai mặt: một mặt, chất lượng của quả cho biết chất lượng của cây sinh ra nó; mặt khác, chỉ cần nhìn thấy một loại trái cây, người ta biết được bản chất của cây sinh ra trái đó. Và vì trong Kinh thánh, trái cây thường tượng trưng cho các hành vi đạo đức, nên việc áp dụng rất dễ dàng: các hành vi của con người bộc lộ phẩm chất và bản chất của lòng dạ người ấy, con người sâu xa của người ấy. Chỉ khi con người bộc lộ hết mình, người ta mới có thể thấy người ấy là người như thế nào. Vì vậy, chúng ta hãy cẩn thận khi muốn can thiệp vào quá trình chín muồi của trái cây. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho mọi cây cối tăng trưởng: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình. Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1 Côrintô 3,6 – 9). Tóm lại, chúng ta được mời gọi chờ đợi thời gian thu hoạch. Chỉ khi mọi sự hoàn thành, chúng ta mới thấy giá trị của nhau như thế nào; chúng ta đừng tìm cách tách lúa mì ra khỏi cỏ lùng trước thời điểm: “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi” (Mátthêu 13: 29-30). Một lần nữa chúng ta hãy tôn trọng người khác. 

Thế điều gì là tốt, điều gì là xấu? Đừng vội phán xét, đừng định kiến ​​một cách bản năng như “Adam – con người đầu tiên” vốn luôn có mặt trong chúng ta,nhưng  hãy cố gắng nhớ câu chuyện cây “biết lành biết dữ”. Những gì xấu xa, chết chóc, luôn luôn xuất hiện với chúng ta như thể tốt đẹp, tốt lành, dễ chịu, hữu ích, vì nếu không như thế chúng ta đã không chọn nó. Rốt cuộc mắt chúng ta được mở ra và chúng ta chỉ biết trái cây tội lỗi và sự chết. Thế còn cây biết lành là cây nào?

Dụ ngôn về cây và trái, dù tốt hay xấu, cho thấy các môn đệ cần phải cắm rễ cuộc đời mình vào chính sự tốt lành của Thiên Chúa để không trở nên trái xấu. Những việc làm tốt lành của họ chứng minh họ đang trở nên trái tốt, đang tăng trưởng tốt đẹp trong nhựa sống là Lời của Thầy. Quả sung và quả nho gợi lên hoa trái của đất hứa, đất do Thiên Chúa ban cho. Do đó, chúng không chỉ là dấu chỉ của nỗ lực của một mình người môn đệ mà còn cho thấy ân sủng của Chúa trong chính những nỗ lực ấy.

  1. Lòng có đầy, miệng mới nói ra.

Bài đọc thứ ba, giống như bài thứ nhất, kết thúc bằng từ, “Lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Luca 6: 45). Lời nói được trình bày như là hoa trái cuối cùng của cây mà chúng ta đang có. Điều này có thể làm chúng ta ngạc nhiên, vì chúng ta đã quen với những lời nói và việc làm đối lập nhau. Để hiểu điều đó phải nhớ rằng ý nghĩa và hậu quả của lời nói vượt ra ngoài chính lời nói. Đối với Kinh thánh, lời nói bao gồm mối tương quan, sự giao tiếp. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Gioan 1:1) có nghĩa là mọi thứ bắt đầu bằng mối tương quan với Thiên Chúa, với Chúa Kitô, vốn là mối tương quan, gắn bó, trao đổi với Thiên Chúa. Lời nói tốt lành thể hiện lòng tốt vì nó thiết lập một mối tương quan chân chính, có tên gọi là tình yêu. Lời nói xấu không phải là lời nói đúng nghĩa; vì khi ấy nó chỉ là một công cụ phục vụ cho ý đồ xấu, nó không còn được sử dụng để thiết lập mối tương quan hướng lên tình yêu thương. Trong thực tế, mối tương quan ấy bị giết chết bởi lời nói gian dối, xấu xa, ác độc. Vì là Lời của sự khởi đầu, cũng là Lời của sự kết thúc, Chúa Kitô là mối tương quan gắn kết của chúng ta.

Tác giả Tin mừng nói: những người tuyên bố mình dẫn đường cho người khác phải chứng minh bằng hành động của họ rằng họ có khả năng làm như vậy; và lời nói cũng là một hình thức bộc lộ hành động của con người;

Sàng rồi, trấu ở lại sàng,

nói ra, cái dở rõ ràng thấy ngay.

Có thử lửa mới biết bình thợ gốm,

nghe chuyện trò, biết ai rởm ai hay.

Xem quả thì biết vườn cây,

nghe lời miệng nói biết ngay lòng người.

Chớ vội khen, khi người chưa lên tiếng:

muốn biết người, phải nghe miệng nói năng

(Bài đọc 1, Huấn ca 27: 4-7).

Ở đây một lần nữa, chúng ta có thể lấy những lời của Chúa Kitô làm hướng dẫn hành động để áp dụng cho đời sống đức tin. Trong thực tế, lời của Chúa Kitô là một nguồn cảm hứng, một trí tuệ. Những gì được yêu cầu nơi chúng ta là sự kính trọng, là nơi bắt đầu sự thiện hảo. Và điều này bắt nguồn từ thực tế rằng chúng ta là anh em – từ ngữ “anh em” được lặp lại trong các câu 41,42-43: “Chúa Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Luca 6: 39-42). Là anh em nghĩa là bình đẳng; tất cả đều mù quáng như nhau, theo một cách nào đó. Là anh em trong sự mù quáng. Và cũng là anh em trong hiểu biết vì công việc của thầy dậy với môn đệ bao gồm việc giúp môn đệ đạt đến trình độ như thầy dậy. Nhưng từ ngữ “anh em” ngụ ý một điều cơ bản hơn: mỗi người được liên kết với Chúa bằng một liên kết trực tiếp. Chính mối liên kết này, mối tương quan của Người Con với Cha, tạo nên sự tôn trọng lẫn nhau của chúng ta. Vì vậy, từ một thứ đạo đức hạn hẹp, chúng ta được dẫn đến cách nhìn của Chúa Kitô về các mối tương quan của chúng ta. Khi tuyên bố rằng mình là người chỉ đạo và dẫn đường là đã coi người khác không có khả năng đi đúng con đường mình đi. Không phải thế, dẫn đường là giúp mỗi người đi trên con đường riêng của họ, đến gặp Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, là “Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14: 6), và thực hành lời thánh Gioan khuyên nhủ trong thư thứ nhất chương 3 câu 7 của ngài:

 

…Đừng để ai làm cho anh em đi lạc đường.

Ai sống công chính, kẻ ấy là người công chính,

như Đức Giêsu là Đấng Công Chính.

 

Phêrô Phạm Văn Trung biên tập.

(passionistedepolynesie.e-monsite và croire.la-croix)

 

 

Chia sẻ Bài này:

Related posts