Chúa Nhật III TN năm C
Nkm 8, 2-4a.5-6.8-10; 1 Cr 12, 12-30; Lc 1, 1-4; 4,14-21
Giêsu đã đến trong cuộc đời này. Lời Hứa Cứu Độ đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu.
Lời Hứa Cứu Độ ấy được báo trước qua miệng các ngôn sứ.
Các ngôn sứ loan báo hình ảnh của Đấng Cứu Độ. Có lẽ rõ nét nhất là hình ảnh của ngôn sứ Isaia, một ngôn sứ quá đau khổ.
Mở sách ngôn sứ Isaia, ở Is 52, 13-53 chúng ta bắt gặp ngay : “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Đọc những dòn tiếp theo, một mảng tối thật u ám nơi cuộc đời của vị ngôn sứ đau khổ này. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa : “Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi : “Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối.” Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát?
Nhìn hình ảnh người tôi tớ như thế này, độc giả sẽ nghĩ ngay trong lòng“Ông Trời đáng ghét của Cựu ước.” Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình:“Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa.” Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng ?
Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: “Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”.
Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một mầu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, bởi lẽ công việc vĩ đại như gánh tội và xoá tội trần gian lại không theo lối nhìn cũng như cách hiểu của con người. Với Thiên Chúa thì khác, người tôi tớ của Thiên Chúa là người khiêm nhường, nhịn nhục và là người yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thư Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại “hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về “ông Trời đáng ghét của Cựu ước” là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.
Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông : “Tôi tớ của Ta”. Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ.
Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông. Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã “xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm”. Ai đã thi hành cuộc hy sinh ? Thiên Chúa hay người tôi tớ ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ “chúng ta”: “Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta… Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội… Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v…” Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại !
Ngày hôm nay, người tôi tớ mà Isaia loan báo đó đã trở thành hiện thực nơi cuộc đời ngôn sứ Giêsu. và ngôn sứ Giêsu hôm nay tiến vào hội đường như là việc hết sức bình thường. Những người trong Hội Đường đã trao cho ngôn sứ Giêsu sách Isaia và mở ra, bất chợt bắt gặp lại hình ảnh của người tôi tớ đau khổ cũng như sứ mạng của người ngôn sứ đó Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.
Sau đó, Chúa Giêsu đã nói với những người ở trong hội đường rằng : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Một lần nữa, Chúa Giêsu khẳng định lại vai trò của Ngài. Ngài đến để đem niềm vui, đem bình an, đem hạnh phúc cho con người.
Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng đã được ông Etra nói với dân sau khi nghe sách Luật mà ông mở ra đọc cho dân : “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em.”
Vẫn là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Chúng ta sẽ tự hỏi rằng chúng ta có giàu có gì đâu để loan báo cho người nghèo ?
Và, có ai hỏi ta, ta cũng sẽ nói rằng tôi nghèo lắm, tôi đâu có gì để mà cho, có gì để mà chia sẻ ? Nói như thế mà không biết ngượng.
Thử, lúc nào đó trong lặng thầm, nhìn lại cuộc đời chúng ta xem, chúng ta được Chúa ban cho quá nhiều ơn đó nhưng chúng ta đã không nhận ra.
Có lúc nào đó, người hằng nghiền ngẫm suy tư
Cảm thấy đời ta, chứa chan hồng ân Chúa ban
còn chờ gì nữa ? Không vang khúc hát tri ân Ngài ?
Lạy Chúa, con xin cảm tạ, Lạy Chúa con xin cảm tạ
Ôi lạ lùng hồng ân Chúa đã ban cho đời !
Chúa ơi, sao con suy thấu tỏ tường ?
Ôi, nhiệm mầu tình yêu thánh thiêng dâng cao vời !
Chúa ơi, tình Ngài tuyệt diệu xiết bao
Nghiền ngẫm thử đi sẽ rõ ! Những ngày này, những ngày Tết Nguyên Đán cận kề. Giữa dòng đời ngược xuôi đi tìm miếng cơm manh áo, ta hạnh phúc hơn nhiều người đó chứ ! Ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng ta đâu nhận ra để rồi ta oán trách Chúa thế này thế kia.
Cứ thử đặt mình vào vai một người di dân xa quê nghèo vì miếng cơm manh áo ta sẽ rõ hơn ai hết. Đi làm tháng vài triệu bạc, thuê căn phòng trọ ọp ẹp gần triệu bạc. Cơm ăn, áo mặc nữa, quay đi quay lại hết tháng phải đóng tiền phòng trọ, tiền điện tiền nước, thử hỏi còn bao nhiêu. Và, những ngày này dắt díu nhau về quê gặp gia đình được dăm ba bữa.
Những ngày này, ra các bến xe, ta thấy những người nghèo ngược xuôi để về quê với hai bàn tay chai sạm và bờ vai gầy guộc nhỏ ta mới thấy được Chúa thương ta là dường nào.
Và, nhất là cuộc đời của ta là ta hạnh phúc, ta có Chúa trong đời.
Một chút, một chút thôi một bữa ăn, một chầu karaoke ta có thể làm ấm lòng những người nghèo. Những người nghèo đó ở đâu xa ? Những người nghèo đó ngay bên cạnh nhà ta mà bấy lâu nay ta vô tâm vô tình không nhớ đến họ.
Có cái để cho nữa đó chứ ! Là chút tấm lòng với những người bất hạnh.
Sứ vụ của Chúa mở ra cho mỗi người chúng ta, chuyện quan trọng là chúng ta có sống sứ vụ mà Chúa đã sống, đã mời gọi chúng ta hay không mà thôi.
Lm. Anmai, CSsR.