Hiện thực hóa lời hứa

Bài đọc 1 hôm nay (CN XXIII/TN-B – Is 35, 4-7a) trình thuật lời ngôn sứ Isaia nói với dân It-ra-en đang trong hoàn cảnh lưu đày. Đây là một lời hứa của Đức Chúa nói với Dân Người: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Vào những ngày ấy, “mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” Những lời hứa hẹn ấy báo hiệu một kỷ nguyên mới sẽ đến, khiến tất cả những người có bệnh tật như cũng được hồi sinh và cả những chỗ đất khô khan cũng trở nên tươi tốt. Ơn cứu độ sẽ tái tạo và tái sinh con người cũng như vạn vật. Chính Tin Mừng của Chúa sẽ sửa chữa, cải tạo mọi cái hư hỏng trước đây cho nên hoàn thiện.

Cũng vì đây là lời hứa cho một tương lai sắp tới (“sắp tới ngày báo phục” – Is 35, 4), nên cần có thời gian để lời hứa được hiện thực hóa. Người thực hiện lời hứa đó chính là Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa, Người đã chữa lành cho nhiều người: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng…” (Lc 7, 1-23). Nói cách cụ thể, những gì trong các công trình của Thiên Chúa dưới thời Cựu Ước, những “hình ảnh báo trước” điều Thiên Chúa sẽ hoàn thành trong thời viên mãn, sẽ hiện thực hóa nơi Ngôi Lời nhập thể (Tân Ước).

Để hiểu được những lời tiên báo cùng những sự kiện đó, Giáo lý HTCG (số 129) khuyên các Ki-tô hữu: “Vậy các Ki-tô hữu phải đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của Đức Ki-tô chết và sống lại. Cách đọc tiên trưng này làm tỏ hiện nội dung vô tận của Cựu Ước… Đàng khác, Tân Ước đòi hỏi cũng phải được đọc dưới ánh sáng Cựu Ước. Việc huấn giáo của Hội Thánh thời sơ khai luôn làm như vậy ( x. 1Cr 5, 6-8; 10, 1-11). “Theo một ngạn ngữ cổ xưa, Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước, Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước “Novum in Vetere latet et in Novo Vetus patet” (Thánh Au-gus-ti-nô thất thư 2, 73; x.DV 16).”

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXIII/TN-B – Mc 7, 31-37) là một minh họa cho việc hiện thực hóa Lời Hứa của Thiên Chúa trong Cựu Ước. Thánh sử Mac-cô  trình thuật phép lạ Đức Giê-su chữa cho một nguời bị điếc và ngọng. Người không chữa lành cho anh theo kiểu người thợ chữa một cái máy. Thái độ ân cần của Chúa “kéo riêng anh ra khỏi đám đông” và những cử chỉ chăm sóc tận tình, đụng chạm đến tai anh, xức nước miếng vào lưỡi anh, đã giúp anh tái lập mối tương quan với mọi người. Khi “tai được mở ra và lưỡi hết bị buộc lại” là lúc anh ta cũng được mở ra với thế giới và có khả năng cần thiết để nối kết tương giao với cộng đồng.

Đức Giê-su đã dùng những dấu hiệu chữa bệnh bề ngoài “đặt ngón tay vào tai anh, lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh”, rồi Người “ngửa mặt lên trời” (tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa Cha) và nói “Hãy mở ra!”, thì “Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi hết bị buộc lại.” Cứ kể ra, với quyền năng Thiên Chúa, Đức Ki-tô chỉ cần phán một lời thì bệnh nhân sẽ khỏi, nhưng ở đây Người muốn cho mọi người thấy được tỏ tường phép lạ mà Người đã thực hiện, nên Người mới có những hành động như trên (một cách mạc khải mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa thông qua những cử chỉ và hành động mà người đời thường gặp trong cuộc sống trần thế). Căn bệnh điếc và ngọng về thể lý thì chỉ cần như thế là đủ; nhưng ở đây Đức Ki-tô còn muốn đi xa hơn, chữa căn bệnh ngọng và điếc về tâm linh của bệnh nhân cũng như của cả đám đông.

Nói đến vấn đề ngọng và điếc tâm linh cũng khá rắc rối và thường thì người mắc căn bệnh này lại không tự biết mình đang mắc bệnh. Căn bệnh này phổ biến ở hai chiều kích: siêu nhiên và xã hội. Với siêu nhiên thì gần như họ luôn nghễnh ngãng (nghe câu được câu chăng, tai lành tai điếc, chớ chưa đến nỗi điếc đặc), thờ ơ trước Lời chân lý và vì thế khi phải nói điều chân lý, họ trở nên ngọng nghịu lắp bắp nói chẳng nên lời. Với xã hội thì căn bệnh này càng phổ biến, đó là những kẻ theo một truyền thuyết mù quáng nào đó mà họ cho là lý tưởng (kiểu như đánh bom tự sát khủng bố giết hại đồng loại, sẽ được nên thánh “tử vì đạo”), hoặc những kẻ ăn trên ngồi trốc rất thính tai khi nghe đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị; nhưng lại “mũ ni che tai” để trở thành điếc đặc trước những thảm cảnh của con người như thiên tai (nạn nhân bão lụt, động đất, nghèo đói, bệnh tật), nhân họa (nạn nhân chiến tranh, khủng bố, áp bức, bóc lột…).

Đó chẳng phải ai khác hơn là những kẻ “xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (Mt 25, 42-43). Quả thực là vẫn còn quá nhiều bệnh nhân “đui mù câm điếc” tâm linh và thật sự cũng vẫn còn thiếu thật nhiều những môn đồ chân chính của Thầy Thuốc Chí Thánh Giê-su Ki-tô. Với những trường hợp bệnh nhân không được chữa khỏi, thế nhân thường hay đổ lỗi cho thầy thuốc. Gặp thầy dỏm thiếu tài hoặc thầy hay nhưng lại thiếu đức thì không nói làm gì, nhưng đến như gặp thầy có đủ tài đức mà họ vẫn không tin, ấy mới là điều đáng trách. Khổ một nỗi là đến ngay những người mắc căn bệnh trầm kha ấy cũng – vô tình hay cố ý – không nhận ra được chính mình đang mang bệnh nan y, cầu mong được Thầy Thuốc Chí Thánh chữa trị.

Họ đã quên mất một điều xem ra có vẻ nghịch lý nhưng lại là sự thật hiển nhiên: Người bệnh – nhất là những căn bệnh tâm linh – muốn được khỏi thì điều kiện tiên quyết không ở nơi người thầy thuốc, mà ở chính nơi bản thân mình và đó chính là lòng tin, là đức tin vậy. Người Thầy Thuốc Chí Thánh luôn luôn sẵn sàng đến với mọi người đau yếu bệnh tật, ăn thua là người bệnh có biết đáp trả mà chạy đến với Người hay không mà thôi. Vâng, “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” (Thánh Au-gus-ti-nô), bệnh nhân tâm linh phải cộng tác bằng đức tin vào Người Thầy Thuốc Chí Thánh, mới được khỏi bệnh là điều tất nhiên vậy. Đừng bao giờ quên rằng chính Người Thầy Thuốc Chí Thánh khi chữa lành cho bệnh nhân luôn luôn khẳng định “Đức tin của con đã chữa lành con”.

Ôi! Lạy Chúa! Con cảm thấy con cũng đang bị điếc và câm – hay ít ra là đang nghễnh ngãng và ngọng nghịu như kẻ giả điếc, giả câm – trước Lời Chúa mời gọi con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ trước những thế lực áp bức bất công… Nhưng con đã làm như không nghe, không thấy, con đã “giả mù sa mưa” để có thể câm lặng “toạ thị cầu an” hầu được yên thân, khỏi bị mất mát, hy sinh những gì mà thế lực áp bức sẽ dành cho những kẻ dám bênh vực cho những người bị áp bức.

Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thánh Linh chữa lành cho con chứng bệnh nan y ấy, như xưa Chúa đã chữa cho biết bao người “què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc” được khỏi không những căn bệnh “đui mù câm điếc” về thể lý mà cả về mặt tâm linh nữa. Ôi! Lạy Chúa! “Tiếng con kêu, nguyện thấu tới Ngài, lạy CHÚA, theo lời Ngài, xin mở trí cho con. Ước chi lời cầu khẩn của con vọng tới Ngài, xin giải thoát cho, như lời Ngài đã hứa.” (Tv 119, câu 169-170). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

Chia sẻ Bài này:

Related posts