Nói đến vua thì không thể không nhắc đến những ông vua thời phong kiến. Những ông vua phong kiến thường để lại những ấn tượng không đẹp: Nào cung tần mỹ nữ nhung nhúc, nào cung đình sơn son thếp vàng choáng lộn, nào ngai vàng ỷ ngọc chói lọi; rồi thì hét ra lửa, mửa ra khói, chỉ một cái phất tay khó chịu là ít ra cũng một sinh mạng đi tàu suốt, mà gầm lên một tiếng thì … Ôi chao, không dám kể nữa! Sở dĩ kẻ viết bài này dám viết ra những lời lẽ như vậy, có lẽ cũng là nhờ đang sống trong thế kỷ XXI, chớ giả thử được sống vào “hồi xửa hồi xưa” thì coi chừng cái chỗ đội nón không còn. Vâng, quả thực thời đại phong kiến thì một ông vua là một cái gì không nên nhắc tới, nói tới, kẻo mắc tội “khi quân, phạm thượng” là toi đời. Mà ngay cận kim thời đại cũng chẳng thua kém đâu (một Hitler, một Mussolini cũng đủ minh hoạ!). Nói đi thì cũng cần nói lại cho rõ: Không phải tất cả những ông vua phong kiến đều như vậy. Cũng có những ông vua được coi là “minh quân” đem hết tâm lực ra lo cho dân cho nước.
Chủ ý của kẻ viết bài này khi nhắc đến những ông vua phong kiến là muốn nhắc đến một ông vua không giống ai – một ông vua lạ lùng – lạ lùng đến không thể tưởng tượng nổi. Ông vua đó chính là ông vua được “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” (Bài đọc 1 CN XXXIV/TN-B – Đn 7, 13-14). Đó chính là ông vua Giê-su. Vua Giê-su đến thế gian đã được tiên báo từ hơn 5 thế kỷ trước Công nguyên (thời kỳ It-ra-en bị lưu đầy: 587-538), qua ngôn sứ Isaia: “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel” (Is 7, 14); “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình.” (Is 9, 5).
Vị “Thủ Lãnh hoà bình” đó đã giáng trần trong một đêm đông giá lạnh không phải tại nơi cung điện nguy nga, mà tại một hang bò lừa nơi một vùng quê hẻo lánh, nghèo nàn; không bạc vàng, không nhung lụa, không lò sưởi, mà được đặt trên máng cỏ, và sưởi ấm bằng hơi thở bò, lừa. Ngay khi Người chào đời tại Bê-lem, thì có 3 chiêm tinh gia ở phương Đông, đã được mạc khải và nương theo vì sao dẫn lối tìm đến Giê-ru-sa-lem hỏi thăm: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 1-2). Chỉ với một sự kiện này cũng đủ chứng tỏ trẻ thơ đó chính là vị Vua đã được “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người.” Và cũng chính vì thế mà ông vua Do-thái đương quyền “hét ra lửa mửa ra khói” Hê-rô-đê ghen tức tìm cách trừ khử bằng cách giết hại hàng loạt hài nhi vô tội!
Khi Đức Vua Giê-su trưởng thành, Người đã hành xử vương quyền bằng cách “không ngựa xe đưa rước, không võng gấm lọng vàng, không tiền hô hậu ủng” đến với những người nghèo hèn, bệnh tật, tội lỗi. Người thu nhận môn đệ nơi những giai cấp thấp cổ bé miệng (chài lưới, nông phu, lao động…), hoặc bị xã hội lên án là tội lỗi (người thu thuế). Cũng chính trong khi Người thu nhận môn đệ thì những người được thu nhận đã nhận ra đó chính là Đức Vua mà họ hằng mong đợi (Ông Na-tha-na-en hỏi Người: “Làm sao Ngài lại biết tôi?” Đức Giê-su trả lời: “Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” Ông Na-tha-na-en nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” Đức Giê-su đáp: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa.” Người lại nói: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.” – Ga 1, 48-51).
Ngay đến cả Tổng trấn Phi-la-tô khi xét hỏi, cũng gọi Người là vua (“Ông Phi-la-tô cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” – Ga 18, 33…-37). Và rồi cái bản án tử treo trên đầu Người “INRI” (“Người này là Giê-su, vua dân Do-thái” – Mt 27, 37) được viết ra với ý mỉa mai, nhưng không ai ngờ rằng đó cũng lại là một sấm ngôn (xc chú thich Ga 19, KT Tân Ước) cho biết: Người Do thái đã đóng đinh chính vị vua của họ – vị vua mà đến Tổng trấn Phi-la-tô (quan cai trị) cũng không tìm ra được một lỗi lầm nhỏ nào!
Lạ lắm! Kẻ viết bài này chưa hề được đọc (chớ đừng nói là được thấy) một ông vua lại quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đầy tớ của mình, rồi còn nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15). Và những Lời Người giảng dậy thì toàn là khuyên bảo ăn ngay ở lành, thật thà công chính, khiêm nhường bác ái, thậm chí còn dậy người ta yêu thương cả kẻ thù (Mt 5, 43-44). Người không chỉ dậy bằng Lời, mà bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cả sinh mạng của Người khi bị treo trên thập giá cho đến chết để đền thay tội lỗi loài người. Trước khi chết treo trên thập tự, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ đã đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 34).
Không bút mục nào có thể kể, ghi lại cho hết được những điều mà Đức Vua Giê-su đã nói, đã dạy và đã làm, thật đúng như lời Gio-an Thánh sử: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Đúng là một ông vua lạ lùng, quá lạ lùng, mở ra một trang sử “không tiền khoáng hậu”: chỉ cần 3 ngày là xây xong một đền thờ Giê-ru-sa-lem mà dân Do-thái phải làm trong 46 năm (Ga 2, 18-22). Và quả thật không sai, chỉ mới đến ngày thứ ba, Người đã khánh thành một Giê-ru-sa-lem mới trên Vương quốc Thiên đình. Từ Vương quốc đó, Người đã kéo mọi người lên sống một cuộc sống chan hoà Tình Yêu. Trong Vương quốc ấy, không còn chỗ cho thờ ơ lãnh đạm, đố kỵ bon chen, nhỏ nhen ích kỷ, chia rẽ hận thù. Lãnh đạo Vương quốc ấy chính là Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô “Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian” (Kh 1, 5), là Vua muôn vua vậy!
Cũng chính vì “Khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ.” (Tc Pl 2, 10), nên vào ngày 11/12/1925, ĐTC Pi-ô XI đã chính thức thiết lập Lễ mừng kính “CHÚA KI-TÔ VUA”. Sau đó, tại CĐ Va-ti-ca-nô II, khi canh tân Phụng vụ, Giáo hội đưa thêm vào một ý nghĩa mới : “ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ, VUA VŨ TRỤ” (Giáo hội thừa nhận đặc tính vũ trụ và cánh chung được thể hiện cụ thể và đầy đủ nhất nơi mầu nhiệm Giê-su Ki-tô, vì thế nên Lễ này được đặt vào đúng vị trí của nó: Chúa nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ, thay vì như trước đó, Đức Pi-ô XI để vào CN trước ngày Lễ Các Thánh 1/11).
Ôi! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ – Vua Tình Yêu! Xin cho con không đui mù trước những thảm cảnh nơi trần thế, xin cho con khỏi câm điếc trước những bất công đày đoạ con người, và nhất là xin cho con được mở rộng trái tim hèn yếu của con, hằng ngày kín múc Tình Yêu chan chứa nơi Ngài, để con biết đến với anh em của con bằng cách san sẻ nguồn Tình Yêu vô tận đó. Ôi, lạy Đức Vua Tình Yêu! Xin cho con luôn được sống trong cuộc sống “vui với người vui và khóc với kẻ u sầu”.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Ðức Ki-tô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Ðấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ “Đức Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ”)
JM. Lam Thy ĐVD.