Augustin trở lại năm 32 tuổi, như thế tiến trình tìm hiểu rất kéo dài. Những chuỗi ngày đưa đến việc trở lại và những biến cố hiện nay là một trong những chứng từ trong lịch sử Kitô giáo. Từ lúc ngài cầu nguyện xin Chúa “làm cho con nên thánh nhưng đừng làm ngay” cho đến khi có vài đứa nhỏ hát trong sân chơi khiến ngài mở thư thánh Phaolô và đọc, câu chuyện của ngài có tất cả mọi đặc tính của một cuốn sách đạo cổ điển. Tất cả đều được kể lại với sự bình dị. Augustine không muốn mạ vàng bông hoa huệ.
Có nhiều nhân vật danh tiếng xuất hiện trong câu chuyện của Ngài. Ambrose là một trong những nhân vật đó, làm giám mục Milan và những ca khúc của ngài hiện nay giáo hội còn dùng để ca hát. Người khác là Simplicianus sửa soạn cho Augustin chịu phép rửa. Ông là người phụ tá Ambrose trong nhiều năm và sau khi thánh nhân chết, khi chính Simplicianus trở thành ông già, thì ông kế vị thánh nhân làm giám mục thành Milan.
Nhưng ảnh hưởng quyết định do một người giáo dân mới trở lại. Marius Victorinus là một nhà trí thức thời danh trong thời đó, một triết gia theo phái Neo Plato và là nhà tu từ. Việc ông trở lại đạo và nhất là việc ông công khai tuyên bố điều đó đã làm cho cả Milan xôn xao và dĩ nhiên ảnh hưởng tới sự thống hối của Augustin lúc đó đang còn do dự.
23. Những bước đi sau cùng: sức mạnh của chứng từ
Tôi đã đi đến chỗ không thể quay trở lại. Lời Chúa đã đi vào nội tâm linh hồn tôi. Tôi cảm thấy Chúa đang bao bọc tôi tôi không còn con đường nào trốn chạy được nữa. Tôi không còn hồ nghi sự sống đời đời của Chúa, cũng như liên hệ giữa một hữu thể vật chất và linh thiêng. Tôi đã trở lại tù trong lòng tôi. Tôi không còn tìm ra chứng cớ nào chống lại chân lý. Nhưng trong cuộc sống trần gian thì chưa giải quyết được truyện gì. Trái tim tôi vẫn còn bị ảnh hưởng xấu do thế gian và xác thịt. Càng cố gắng tôi càng không thể tưởng tượng cuộc sống không có dục tình. Tôi không tìm thấy lỗi lầm gì nơi Ðấng Duy nhất là đường, là Ðấng Cứu độ thế gian nhưng tôi không thể lôi kéo mình theo cửa hẹp đưa đến sự sống.
Lúc này Chúa dẫn tôi đến với một ông già khôn ngoan, Simplicianus mà từ thời niên thiếu đã sống đạo đức. Chính ông cũng đã dẫn giám mục Ambrose đến với Chúa trong những năm trước. Lúc này, khi đã già hình như đối với tôi ông có kinh nghiệm nhiều cũng như sự sáng suốt tinh thần có thể hướng dẫn tôi qua sự lo lắng hiện tại.
Vì thế tôi đến với ông và giải thích sự bế tắc của tôi: làm sao tôi đã kinh qua bao nhiêu kinh nghiệm, thụt lùi để tới tình trạng này, và tôi không còn thấy thoả mãn hay khoái lạc trong sự thành công ở đời hay sự tung hô của thế gian; tôi đã chán chường với kiểu sống của tôi và nhất là thân xác tôi luôn điều khiển ý chí và không có gì đem lại cho tôi niềm vui như Chúa. Nhưng tôi thêm là tôi bị mắc bẫy dục tình và rất yếu về luân lý nên luôn lựa chọn giải pháp dễ chịu và êm ái.
Tóm lại tôi cho ông hay tôi biết mình đã tìm ra “hạt châu báu” Chúa Giêsu nói tới, nhưng tôi hồ nghi không biết tôi có sẵn sàng trả giá để được viên ngọc đó.
Simplicianus nghe và rồi thay vì trả lời ông lấy một bản phê bình tác phẩm của tôi về Victorinus giáo sư tu từ thời danh mà tôi tin đã chết như một người công giáo.
Simplicianus thấy ngay là vấn đề của tôi không muốn khiêm nhường hay tin rằng chân lý dấu ẩn cho sự khôn ngoan nhân loại nhưng mạc khải cho trẻ thơ. Vì thế ông kể chuyện trở lại của Victorinus cho tôi.
Victorinus là học giả danh tiếng thời đó trong khoa học tự do, một người nghiên cứu phê bình các triết gia lớn có uy tín, là người dậy học cho nhiều nghị sĩ. Vì những công việc ấy mà ông có tượng ở Forum trong thành phố Roma.
Suốt đời ông đã thờ ngẫu tượng và thành tín theo đạo của lương dân như mọi nhà lãnh đạo Roma thời đó. Ông còn bênh vực đạo cũ bằng những bài hùng biện vang lừng.
Khi về già ông học Thánh kinh, và tìm kiếm nghiên cứu các tác phẩm kitô giáo khác. Ông thấy những tác phẩm đó rất quyến rũ và thuyết phục nên ông đến thăm Simplicianus và nói “Tôi muốn ông biết tôi là người Kitô hữu.” Nhưng Simplicianus không hoàn toàn tin lời ông. Ông nói: “Tôi không bao giờ tin điều đó hay nhận ông là Kitô hữu cho đến khi ông công khai đến nhà thờ của Chúa Kitô.”
Victorinus cười. “Vậy những bức tường nhà thờ làm cho con người thành Kitô hữu sao?”
Nhưng Simplicianus giữ vững lập trường trong nhiều tuần lễ, người trí thức già nói lên là mình là Kitô hữu nhưng thừa tác viên thì nói là ông không là Kitô hữu bao lâu ông chưa sửa soạn gia nhập thân thể hữu hình của Chúa Kitô. Victorinus thường kết thúc tranh luận của mình với những lưu ý về tường nhà thờ. Sự thật là như ông biết, ông sợ xúc phạm bạn bè ông quen biết, những người theo thần dân ngoại, có thể phản lại ông nếu ông bỏ đạo và tin nhận Chúa Giêsu cách công khai.
Lâu lâu Victorinus có đọc lời cảnh cáo của Chúa Kitô trong phúc âm là ngài sẽ không tuyên xưng trước mặt thiên thần những người không dám tuyên xưng ngài trước mặt người đời. Ông già bắt đầu sợ là cuối cùng ông sẽ bị từ chối vì không muốn tuyên xưng Chúa cách công khai. Ông cũng thấy rất nặng nề khi trước đây ông tham gia những nghi thức ngoại đạo trong đền thờ cách tự do và hãnh diện nhưng bây giờ lại từ chối nhận lãnh bí tích Kitô giáo cách khiêm nhường, như người mang Lời Chúa.
Một hôm ông làm cho Simplicianus ngạc nhiên khi ông nói “Thôi, mình đi nhà thờ. Tôi quyết định làm Kitô hữu.” Ông Simplicianus sung sướng đến nhà thờ với ông, ghi tên cho ông học đạo. Ông ghi tên ông làm tân tòng muốn tỏ ra mình đã sống lại đời sống mới làm cho những người ở Roma ngạc nhiên và Kitô hữu vui mừng.
Ðến ngày tuyên xưng đức tin vị linh mục dành cho Victorinus một lễ nghi riêng tư để công luận khỏi chú ý (một đặc ân thường ban cho những trường hợp đặc biệt). Ông từ chối và nói rằng ông muốn tuyên xưng đức tin trước mặt cả cộng đồng. Dù sao ông nói, điều ông dậy trước đây chỉ là kiến thức nhân loại. Tại sao vấn đề cứu độ quan trọng hơn lại không tuyên xưng công khai?
Khi ông đứng lên tuyên xưng đức tin (ở Roma thường làm với những mẫu kinh thuộc lòng) cả cộng đồng nhận ra ông. Họ thì thầm với nhau trong nhà thờ :”Ông Vctorinus đó!” Lúc sau họ không thể kìm hãm sự bất ngờ và sung sướng nên vui mừng la lớn. Nhưng khi ông bắt đầu nói thì cộng đồng im lặng vì ai cũng muốn nghe ông nói. Ông tin tưởng nói lên niềm tin của ông và mọi người trong cộng đồng đều cảm động yêu mến ông.
24. Vòng xích sắt
Câu chuyện Simplicianus kể cho tôi gây ảnh hưởng cho tôi. Tôi đột nhiên muốn hăng hái theo gương Victorinus. Sau đó trong thời hoàng đế Julian, Simplicianus cho tôi hay Victorinus phải chọn hoặc tiếp tục dậy tu từ hay chỉ học Thánh Kinh vì sắc lệnh hoàng đế không cho người Kitô hữu dậy văn chương hay tu từ. Dĩ nhiên Victorinus chọn con đường Lời Chúa. Tôi coi như ông có phước hơn là dứt khoát, khi có thể dễ dàng và rõ ràng quyết định như thế. Tôi ao ước có thể lựa chọn dễ dàng như thế. Tôi cảm thấy mình còn bị ràng buộc bằng xích sắt của Kẻ Thù dù tôi không muốn. Ðiều xảy ra cho chúng ta là những ước muốn không trong sạch phát xuất từ những tình cảm sai lạc và khi nhượng bộ chúng chúng ta tạo nên thói quen trở thành một thứ nhu cầu. Tiến trình này ràng buộc tôi như giây xích sắt. Ý chí mới của tôi muốn phụng sự Chúa không đủ mạnh để chiến thắng ý muốn cũ bị hư hoại, đã khó hơn vì thành thói quen. Vì thế hai ý muốn của tôi tranh chấp, cũ và mới, xác thịt và thần linh và cuộc tranh đấu làm cho tâm trí tôi rã rời.
Ðây là điều thánh Phaolô đã nói ” Xác thịt tranh đấu cùng Thần Trí và Thần trí cùng xác thịt”. Tôi dã kinh nghiệm điều mà thánh nhân và nhiều người khác đã có. Ðây không phải là điều độc đáo.
Chỉ vì ý chí tôi thất bại. Tôi như người đang ngủ thức dậy và muốn chỗi dậy và làm việc trong ngày, nhưng lại ngủ trở lại.Tâm trí bị thuyết phục nhưng thân xác không theo tín hiệu của nó.Chúa tỏ cho tôi điều tôi phải làm và tất cả câu trả lời là “Vâng, vâng, con đồng ý. Sớm sủa. Con sẽ làm ngay. Xin kiên nhẫn với con một chút nữa thôi.” Nhưng thực sự cái sớm sủa càng ngày càng lâu và cái một ít nữa thôi thành một thời gian lâu.
Tôi thấy tập quán xấu rất tệ hại, một thứ luật của tội lỗi có thể làm cho tâm trí con người chống lại ý chí. Chúng ta phải trá giá quá đắt khi sa vào tội lỗi với ý thức. Như vị tông đồ đã viết “khốn khổ cho tôi, ai sẽ giải cứu khỏi thân xác hay chết này? Tôi biết như ngài biết, chỉ có câu giải đáp là ơn của Chúa Giêsu Kitô.
25. “Hãy làm cho con nên thánh nhưng xin đừng làm ngay”
Câu chuyện của Victorinus có ảnh hưởng lớn trong cuộc đời của tôi và lại được củng cố do một kinh nghiệm mấy ngày sau. Một người bạn ở Phi châu tên Pontitianus thăm tôi và Alipius. Anh ta có địa vị cao trong dinh hoàng đế. Tôi không thể nhớ anh đến thăm chúng tôi vào dịp nào nhưng tôi còn nhớ rõ anh lấy cuốn sách thu thánh Phaolô trên bàn tôi. Hình như anh ngạc nhiên thấy cuốn sách ở đó và anh rất hài lòng. Khi tôi giải thích cho anh tôi dùng nhiều thời gian để học kinh thánh, anh lợi dụng dịp ấy cho tôi hay anh là người Kitô hữu và mới có dịp học hỏi những tác phẩm của một vị ẩn sĩ Ai cập là Anthony. Cả tôi và Alipius đã nghe nói về ngài cũng như sự canh tân tinh thần lớn lao kèm theo sứ vụ của ngài. Hàng ngàn người đã vào tu viện hiến thân cho việc cầu nguyện và phục vụ ngay giữa lòng sa mạc.
Hơn thế nữa Pontitianus còn kể cho chúng tôi hay có một tu viện đang phát triển ở Milan ngay ngoài thành phố, dưới sự coi sóc của Ambrose. Chúng tôi sống ở Milan mà không biết gì về chuyện đó. Rồi anh tiếp tục kể anh đã đi thăm Treves với ba công chức, trong khi hoàng đế dự cuộc tranh đấu buổi chiều ở hí trường. Cả bốn người chia làm hai nhóm và tình cờ đi vào phía gần thành phố và hai người trong bọn đã vào một lều tranh nơi có nhiều kitô hữu sống hoàn toàn trong sự từ bỏ. Họ là những người có tinh thần nghèo khó sẽ được thừa hưởng nước trời.
Tại đây hai ông đọc một cuốn sách của thánh Anthony. Ðọc xong anh ta bèn quyết định sống cuộc sống như thế không phải một ngày kia, hay càng sớm càng tốt hay một lúc lâu sau, nhưng ngay tại đó và lúc đó. Anh ngỏ ý cho người bạn nói anh muốn đoạn tuyệt cuộc sống hiện tại và tham vọng và gia nhập cộng đoàn nhỏ này ngay, không trở về thành phố nữa. Anh bạn bất ngờ thay cũng muốn ở lại.
Khi Pontitianus và người bạn biết chuyện, họ cố gắng thuyết phục họ trở về hoàng cung. Nhưng khi họ thấy hai người quá thành thật họ cũng phải rơi nước mắt chúc mừng cho họ, hứa sẽ nâng đỡ họ bằng lời cầu nguyện và rất khó khăn mới trở về hoàng cung.
Hai người kia ở lại trong căn nhà nghèo đó, đầy tràn thị kiến. Cả hai đều mới đính hôn nhưng khi hai nàng nghe chuyện họ cũng quyết định hiến thân phục vụ Chúa và gia nhập tu viện.
Nghe câu chuyện đó tôi thấy như mình bị thúc nhắc. Ðiều này bó buộc tôi nhìn vào mình và ghét những gì tôi thấy. Trong bao nhiêu năm từ khi tôi được 19 tuổi, tôi thường nói mình tìm kiếm chân lý. Thế mà lúc này tôi vẫn còn trì hoãn còn chối bỏ trong khi những người này đã đáp lại tiếng gọi của Chúa ngay không phải trong năm hay tháng hay tuần lễ mà trong giây phút. Thực ra từ khi còn nhỏ tôi đã xin Chúa sự trong sạch. Nhưng tôi hay thêm điều kiện ” Lạy Chúa xin cho con tiết độ nhưng đừng cho ngay.” Tôi sợ Chúa trả lời ngay và giải thoát tôi ngay. Ðiều tôi muốn là làm sao cho ứ tràn dục tình.
Tôi điên khùng không quyết định nữa vì tôi không chắc con đường nào là đường chính mình phải theo. Lúc này tôi ở vị trí này, hoàn toàn chắc chắn về con đường, xác tín về chân lý, thế mà còn do dự cầu nguyện là “Lạy Chúa xin làm cho con nên thánh…nhưng xin đừng làm ngay.”
26. Một ngày trong khu vườn
Có một khu vườn trong nhà trọ của chúng tôi, chúng tôi được tự do sử dụng vì ông chủ nhà ở chỗ khác. Một hôm trong giai đoạn tâm trí xao động, tôi vào vườn với Alipius. Tôi cảm thấy mình đang bị khủng hoảng. Tiếng tôi yếu đi và lạ kỳ, mặt tôi nóng bừng và tôi bắt đầu khóc.
Tôi nói với Alipius “Anh nhìn, nhìn xem tình trạng của chúng ta này. Người không được giáo dục và bình dân thì là những Kitô hữu dấn thân còn chúng ta, học cho nhiều vẫn còn bị xác thịt hành hạ.” Chúng tôi ngồi xa căn nhà, tôi thổn thức và khóc, anh thì bối rối và bất ngờ. Lúc này tôi thấy tất cả chỉ là vấn đề của ý chí. Ta không thể làm gì nếu ta không muốn dù cho là giơ tay hay hoạch định một chương trình du lịch trên đất hay trên biển. Ta phải có ý chí muốn làm điều đó một ý chí có quyết tâm và mạnh mẽ, không phải thứ ý chí nửa chừng, do dự hay lập lờ.
Khi liên quan đến cơ thể, trừ khi bị thương tật hay yếu đuối, ý chí và năng lực để làm chuyện gì luôn là một. Tôi nghĩ đến chuyện giơ tay và tôi làm chuyện ấy.
Nhưng tại sao tâm trí lại chậm rì trong việc tuân theo ý chí? Có phải khi ta muốn chuyện gì như cử động vật lý thì ta muốn toàn diện, còn khi ta muốn làm gì về luân lý hay tâm linh, chúng ta chỉ muốn một phần hay nửa vời? Chính sự do dự làm cho không hành động được. Chúng ta không làm điều ấy vì trong nội tâm ta không chắc mình làm điều ấy.
Lúc đó tôi ngồi trong vườn trong thế giới riêng tư của riêng tôi. Bản tính cũ của tôi thừa hưởng của Adam và tội của ông, cố gắng giữ tôi lại trong khi Chúa tăng cường tiếng gọi nội tâm, gọi tôi dứt khoát với con người cũ và sống lại như con người mới. Tôi tiếp tục nói với chính mình “Nào hãy để chuyện đó xảy ra bây giờ, xảy ra bây giờ” và khi tôi nói tôi quyết định làm điều ấy. Nhưng tôi đã không làm. Tôi cũng không đi vào bản tính của mình. Tôi như đứng ngoài chính mình và nhìn xem cuộc chiến. Tôi đứng đó lưng chừng giữa chết cho cái chết và sống cho cuộc sống. Tôi ngạc nhiên vì những tập quán xấu giữ tôi lại.
Chúng thì thầm “nếu anh bước theo bước đó, anh sẽ không bao giờ nếm được khoái lạc do việc buông thả tình dục. Từ lúc đó anh sẽ bị cấm làm những chuyện đó. Anh có thực sự sống với chúng ta không?” Và dù cho tôi biết đó chỉ là trò chơi và hời hợt, so sánh với giá trịĩnh cửu, tiếng của chúng có vẻ mời gọi và sự hối thúc của chúng giữ tôi lại.
Nhưng dó chỉ là năng lực mờ nhạt dần; không có gì như thế từ trước đến nay. Như là tôi thấy trước mắt tôi một thị kiến, một hình ảnh toàn thể của cuộc đời mới, cuộc sống trong sạch và kỷ luật. Ðây không phải là khung cảnh mờ nhạt hay tiêu cực. Khác hẳn thế. Nó hiện kích thích nhưng không phải là tình dục. Tôi có thể thấy trong thị kiến nhiều hạng người thuộc mọi lứa tuổi, thanh niên và thiếu nữ, bà goá già, ông già, nhưng tất cả đều tươi cười chào đón và hình như chan chứa niềm vui nội tâm.
Có tiếng nói với tôi “Anh không thể làm những điều như những người này sao? Họ không làm những điều đó dựa trên sức mình. Họ đã có niềm vui đó qua sức mạnh Chúa của họ ban cho. “Bạn lo lắng vì bạn cố hoàn tất công việc đó với sức mạnh của bạn, và như thế bạn không hoàn tất điều gì cả. Hãy ném mình vào lòng Chúa và tin cậy vào mình Ngài. Ngài không từ chối và làm cho bạn sa ngã. Nhưng bạn phải tín thác hoàn toàn vào ngài. Chỉ lúc đó và chỉ lúc đó ngài sẽ tiếp nhận và chữa bạn lành.” Tôi do dự lại như đang nghe tiếng thì thầm ma quái nơi tai tôi “ANh có thể sống không có chúng ta mãi mãi không?” Lại có tiếng từ trời “Hãy bịt tai đừng nghe tiếng thì thầm đó. Ðó là tiến nói của bản tính sa ngã tội lỗi. Hãy giết nó đi. Ta biết nó nói về mọi thứ mọi loại khoái lạc tội lỗi nhưng chúng nghịch lại luật của Chúa.”
Cuộc tranh luận kỳ lạ tiếp tục trong lòng tôi trong khi Alipius khốn khổ ngồi bên cạnh tôi yên lặng đợi chờ cho cuộc chiến kết thúc.
Khi đó tôi thấy mình cần an tĩnh và tôi nói về điều đó, tôi không rõ đã nói gì và rời Alipius, để không bị áp lực của con người nào hết. Tôi nằm xuống gốc cây giẻ và khóc cay đắng, “một hi sinh đáng Chúa chấp nhận Chúa ơi.” Tôi kêu lớn tiếng những lời tương tự như sau : “Ðến bao giờ, Chúa ơi? Ðến bao giờ ? Chúa giận con mãi sao? Xin đừng nhớ tới tội cũ của con.
Chính tội quá khứ và năng lực hiện tại của nó kêu tôi trở lại. Nên tôi tiếp tục cầu nguyện “Ðến bao giờ lạy Chúa? Ngày mai và ngày mai? Tại sao không bây giờ? Tại sao không thanh tẩy con trong giây phút này?”
Rồi trong lúc cầu nguyện tôi nghe có tiếng, như tiếng đứa trẻ trai hay gái trong nhà bên cạnh lập đi lập lại vài tiếng nói tôi nghe du dương như bài hát: Hãy cầm lấy mà đọc. Hãy cầm lấy mà đọc.” Tôi dừng lại vì tiếng nói. Tôi chưa bao giờ nghe con nít nói thế khi chơi với nhau. Sự cay đắng và giọt lệ bỗng ngưng. Tôi chỗi dậy và xác tín sứ điệp tự trời cao và đó là điều nói với tôi bảo đọc nơi chương 1 tôi tìm thấy nơi cuốn sách thơ thánh Phaolô đang mở sẵn. Tôi nhớ lại Anthony cũng đã được bảo cũng một cách như thế bằng một đoạn Phúc âm hình như có ý nghĩa với ông trong một giai đoạn cuộc đời. “Hãy đi bán mọi của con có, và cho kẻ nghèo, và con sẽ có gia tài trên trời. Rồi đến và theo ta.”
Thế là tôi trở lại bàn nơi Alipius đang ngồi và lấy cuốn sách thánh Phaolô tôi đang để đó. Tôi cầm lấy sách rất nhanh trong tay, mở sách và đọc trong thinh lặng chương sách đập vào mắt tôi “Không phải trong trác táng say sưa, trong việc đổi vợ chồng hay tà dâm, không phải trong giận dữ và ghen tương: nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô Giêsu và không chiều theo xác thịt hay ham muốn của nó.”
Tôi không cần đọc thêm. Ngay tức khắc khi tôi đọc hết câu,mọi bóng tối nghi ngờ trước kia tan biến, như ánh sáng trong lành chói lói tràn vào lòng tôi. Tôi phải bỏ con người cũ, phải mặc lấy con người cũ, và tôi phải làm ngay bây giờ.
Tôi gấp sách đánh dấu chỗ vừa đọc và kể cho Alipius chuyện gì đã xảy ra cách bình tĩnh. Anh cũng kể cho tôi những gì xảy ra trong lòng anh mà tôi không biết. Bấy giờ anh xin tôi cho đọc đoạn kinh thánh tôi đã đọc nhưng anh đọc một đoạn xa hơn tôi không biết ở đâu “Bây giờ kẻ yếu đuối trong niềm tin anh hãy mang theo anh.” Anh áp dụng điều đó cho anh, anh nói với tôi, và ngay lập tức, không do dự, anh theo tôi trong mục đích và quyết tâm mới.
Ngay lập tức chúng tôi vào nhà và kể cho mẹ tôi những gì đã xảy ra.
Khỏi cần phải nói mẹ tôi vui mừng khôn tả. Như bà nói “Chúa còn làm hơn cả những điều ta xin hay nghĩ tới.” Bà nói thế vì bà chỉ giới hạn lời cầu nguyện cho tôi trở lại. Nhưng Chúa đã làm quá cho tôi khiến tôi quên cả tham vọng, ngay cả ước muốn có vợ, và quyết định dấn thân cho qui luật cuộc sống Chúa đã tỏ cho mẹ tôi trước đây bao nhiêu năm trước khi tôi chấp nhận, một sự chấp nhận mẹ không thể tin có thể xảy ra.