Phiên Tòa Ban Đêm

TẤN KỊCH ĐỘC ÁC !…

Khoảng ba giờ sáng ngày thứ sáu, quân lính giải Chúa đến phủ Thượng tế Caipha để Hội đồng Cộng tọa xét xử. Hội đồng này đã được chiêu tập ngay lúc ban đêm, do lệnh khẩn cấp của Caipha.

Hội đồng gồm 23 Tư tế, 23 Luật sĩ, 23 Kỳ lão và hai vị chánh phó chủ tịch, cộng cả là 71 hội viên. Nhưng đếm hôm ấy Hội đồng vắng mặt nhiều người; một số hội viên không đến, vì ngại lúc đêm hôm, một số nữa không đến vì có thiện cảm với vị tiên tri thành Nazareth, như các ông Nicôđêmô, và Giuse ở Arimathêa. Tuy nhiên theo pháp lý chỉ cần 23 hội viên có mặt là cũng đủ quyền để biểu quyết. Đêm hôm ấy các hội viên không đến đủ cả 71 người, nhưng cũng đủ mặt đại diện các giới tư tế, luật sĩ và kỳ lão, dưới quyền chủ tịch của ông Caipha và Anna.

Nơi Hội đồng là một phòng rộng lớn, thảm hoa rực rỡ, phía trong là ghế ngồi của các hội viên khoác áo trắng, hai bên là bàn giấy bí thư, phía ngoài là chỗ đứng của vệ binh và gia bộc, người cầm roi, người cầm giáo. Hôm ấy Hội đồng họp ban đêm, nên có cả người cầm đèn và cầm đuốc.

Quân lính điệu Chúa vào giữa phòng hội đứng trước mặt vị chủ tịch, dưới ánh lửa của mấy bó đuốc nhựa thông. Ánh lửa lập lòe tỏa trên các mặt hội viên một ánh sáng hung hung đỏ lợt và in trên tường những bóng đen trông ghê sợ tựa bóng ma. Bầu không khí trong phòng hội nặng nề khó thở. Mọi người nhìn Chúa với cặp mắt hung tàn giận ghét.

Chúa đứng thẳng người, hai tay bị trói, tóc râu phờ phạc, mặt hốc hác, mắt nhìn về xa, chiếc áo khoác ngoài nhiều chỗ thủng, và nhiều chỗ có vết máu. Ngài có vẻ như bị một lủ hung đồ đánh đập, và hành hạ trong một cơn giận điên cuồng quái ác.

Các hội viên đã dịnh trước với nhau một bản án tử cho Ngài, nhưng mặt ngoài, họ còn muốn giữ mấy thể thức. Trước hết, họ đưa nhiều người vào làm chứng, vu cho Chúa những tội đáng chết, nhưng các chứng đó đều là chứng gian, nên các lời cung khai của họ mâu thuẫn và bất hợp. Thế mà theo Luật, phải có hai chứng tá hợp nhau mới được kết án tội nhân. Thành ra cả hội đồng cùng lúng túng.

Giữa lúc đó, có hai chứng nhân lợi hại do Thượng tế Anna mua chuộc, đứng dậy vu cáo Ngài tội đe phá Đền Thờ rằng:

-Chung tôi đã nghe thấy nó nói: Ta sẽ phá đổ Đền thờ do tay người ta kiến tạo và trong vòng ba ngày, Ta sẽ xây Đền thờ khác không phải bởi tay người ta làm ra.

Lời tố cáo trên đây đối với quan niệm của hội đồng trong lúc này, có một tính cách rất hệ trọng. Nó có ý nghĩa tố giác một tội lộng ngôn và phạm thánh, vì đối với dân Do Thái, Đền Thờ Jêrusalem là cung điện cực thánh của Đấng Tối Cao, Chúa Tể của toàn dân. Nên đe phá Đền thờ tức là đe chính Đấng Tối Cao, tức là khinh miệt cả một dân tộc của Chúa. Bởi vậy theo Luật, ai mưu phá Đền thờ sẽ bị tử án.

Nhưng sự thực Chúa có đe phá Đền thờ đâu. Một ngày kia đang khi nghe giảng, nhiều người Do Thái đòi xem điều lạ, Chúa phán bảo: Hãy phá Đền thờ này đi và trong ba ngày Ta sẽ làm lại Song theo điệu bộ và cách nói, thì phải hiểu Ngài chỉ về thân thể Ngài, một đền thờ sống động của Chúa, chứ không phải đền thờ bằng cẩm thạch ở Jêrusalem. Phải ! Thân thể Ngài sẽ chết đi và ngày thứ ba sẽ Phục Sinh, đó là chính ý nghĩa của Ngài khi nói Phá đi và xây lại Cái đó rất đích thực và rõ rệt, tới nỗi hai người chứng nhân vừa vu oan xong, lúc phải giải thích liền đâm ra nghi hoặc, không dám cả quyết, rồi dần dần nói bất hợp nhau và quay ra cãi nhau inh ỏi.

Trong lúc chúng bất hợp nhau như vậy, Chúa chỉ cần nói một câu cũng đủ làm chúng hổ thẹn và ngã lẽ. Nhưng Ngài vẫn đứng nhìn im lặng. Cử chỉ im lặng của Ngài làm các hội viên nhăn mặt tức giận. Thượng tế Caipha đứng phắt lên, nhìn thẳng vào Ngài và nói gắt như người bị giật gân:

-Ông không đáp lại những điều người này tố cáo ông ư ?

Nhưng Ngài càng thản nhiên và im lặng, không nói một tiếng. Sự im lặng của Ngài có ý nghĩa rất hùng hồn và hiên ngang, khiến phiên tòa lộ vẻ một vở kịch sắp biến thành một trò cười. Không khí trong phòng hội bế tắc. Các quan tòa ngượng nghịu quay nhìn nhau rồi nhìn Thượng tế. Nhưng Caipha đã chợt nghĩ ra một kế buộc lòng người bị cáo phải nói. Ông đổi cử chỉ lại và trang nghiêm nói dằn từng tiếng một:

-Nhân danh Thiên Chúa, Đấng Hằng Hữu, ta buộc ông phải nói cho ta hay, ông có phải là KiTô Con Đức Chúa Trời không ?

Nghe câu hỏi có ý nghĩa, cả hội đồng mừng và nín thở chờ Ngài đáp. Họ hiểu lầm: Nếu tự xưng là Con Thiên Chúa, Ngài sẽ bị buộc vào tội lộng ngôn. Nếu chối, Ngài sẽ bị khép vào tội mê hoặc dân chúng. Cả hai tội cùng bị tử án…Nhưng đối với Ngài, đó là cơ hội rất tốt để công khai tuyên bố tước vị và uy quyền cao đại của Ngài, tuy biết đối phương sẽ lạm dụng lời tuyên bố đó để kết an Ngài cách bất công. Từ trước đến giờ Ngài im lặng để phản kháng cử chỉ gian ngoa và ác độc của họ, cũng như để ngầm tỏ mưu gian của họ đều thất cách. Nghĩa là Ngài không thèm thưa lại và họ không thể buộc cho Ngài những trạng tội mà họ tưởng sẽ buộc được. Nhưng bây giờ cảm thấy bất lực, họ phải nại đến thánh danh Thiên Chúa một cách kính cẩn trang nghiêm để biết sự thật. Mà thánh danh đó dầu phát xuất bởi miệng một kẻ bất xứng cũng vẫn đáng tôn vinh. Đàng khác nữa, Ngài xuống thế là sở dĩ để làm vinh danh Thiên Chúa, hy sinh tính mạng vì Thiên Chúa, Ngài không sợ chết như Tông đồ Phêrô đâu. Nên bây giờ Ngài cũng muốn dựa vào danh Thiên Chúa, chứng thực sứ mạng và quyền lực của Ngài, tuy biết địch thù sẽ hoa mắt trước ánh mạc khải chói lọi của Ngài, và đi vào con đường tối tăm tội lỗi. Tuy nhiên lòng từ bi quảng độ của Ngài còn ở một lối thoát cho họ bằng câu sau đây:

-Tôi nói với các ông, các ông cũng chẳng tin tôi, và tôi hỏi các ông, các ông cũng không thưa lại.

Nhưng họ cố chấp và mù quáng, không những Caipha mà nhiều hội viên khác cũng đứng dậy giơ tay và giận dữ nói với Ngài:

-Thế ông là KiTô Con Đức Chúa Trời ư ?

Ngài hiên ngang tuyên bố:

-Phải. Đúng như các ông nói. Và một ngày kia các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng Hằng Hữu, cùng uy nghi hiện đến trên những đám mây.

Lời tuyên bố của Ngài ứng hợp với hai câu tiên tri trong Cựu Ước. Một câu của Đavít

Chúa Cứu Thế ngự bên hữu Đức Chúa Cha một câu của Daniel Con Người sẽ đến trên những đám mây và sẽ thống trị muôn dân với một quyền lực không giới hạn. Nhắc lại lời tiên tri đó, Chúa muốn chứng tỏ Ngài là vị Cứu Thế các tiên tri đã nói xưa.

Đáng lẽ ra, Nghe Ngài tuyên bố như thế, Caipha và các hội viên rùng mình khiếp sợ và thôi làm ác mới phải. Nhưng ngược hẳn lại, tội ghét Chúa đã làm quáng mắt linh hồn của họ, nên nghe Ngài tuyên bố, Thượng tế Caipha giả bộ tởm gớm, xé áo ngoài ra và kêu lên:

-Nó phạm thượng ! Nó phạm thượng ! Chúng ta còn cần gì chứng tá nữa. Chúng ta đã nghe chính miện nó nói phạm thượng ! Vậy các ông nghĩ phải xử sao cho đúng ?

Theo tục Do Thái, khí nghe ai nói phạm thượng, người ta quen xé áo ngoài ra từ cổ đến bụng, để chỉ nỗi đau lòng, phẫn nộ và tởm gớm. Trong trường hợp trên đây, Caipha đã xé áo ngoài để giả bộ đau lòng và tởm gớm. Thấy Caipha cử động như thế, một cử động đã dự tính, các hội viên liền rầm rộ, dậm chân giơ tay, và rập tiếng rống như người hốt hoảng:

-Nó đáng chết ! Nó đáng chết !

Tiếng rống của họ nghe rùng rợn, như kết tinh bao nỗi thù hằn tức bực và uất hận. Sau đó họ chồm vào Chúa như lũ sói nhảy chồm vào con chiên. Họ đấm, họ đánh, họ tát, họ vả, họ nhổ. Tóm lại họ làm cho Chúa hết mọi khổ hình bấy giờ họ có thể nghĩ ra. Họ muốn diệt tan Ngài dưới cơn bão đánh đập, và muốn dìm Ngài xuống vực thẳm khổ nhục chua cay. Theo tinh thần Luật, Hội đồng phải họp ban ngày, và các hội viên phải bỏ phiếu riêng mới có giá trị. Nhưng đêm hôm nay, Lề Luật chỉ còn là chữ chết. Họ khống đếm xỉa đến nữa. Giờ đây lòng họ ghét Chúa đã lấn át cả tinh thần Luật, cả mọi e dè và ngượng nghịu. Nên họ thả lỏng cho ngũ quan tha hồ hành ác để Con Đức Chúa Trời được hả dạ trong nhục nhã đau thương !

Hành hung thỏa mãn, họ lui về phòng bên cạnh để tìm kế vận động với quan Tổng trấn xử Ngài cho chóng. Thượng tế Caipha hãnh diện về mưu mô của mình đã kết quả. Nét mặt hân hoan, ông mỉm cười nhìn hai cái giải áo đã xé phớt phới theo nhịp bước như lá cờ của người chiến thắng. Nhưng ông có ngờ đâu ngày hôm ấy một chiếc áo khác quý hơn, đó là chiếc màn lớn của Thánh đường sẽ bị xé như chiếc áo của ông, để chỉ giáo hội mà ông làm thủ lãnh, sẽ bị phế bãi, và những kẻ nối quyền ông, chỉ còn là những người Tư tế bất hợp pháp, thiếu hẳn xứ mạng thiêng liêng của Đấng Tối Cao. Ông càng không ngờ rằng bốn mươi năm nữa, chính chiếc áo cẩm thạch muôn màu của Thánh đường Jêrusalem cũng sẽ bị những bàn tay hung tàn của quan La Mã xé rách.

Lúc trở bước lui về, Caipha trao Chua cho đám gia bộc và vệ binh canh giữ. Quân hạ đẳng này, theo gương của Hội đồng và biết ý Caipha, giở hết trò hành khổ Chúa. Chúng thi nhau và đổi lượt nhau hành hạ Ngài quả một tội nhân vô phương chống cưỡng. Thú tính ác độc của chúng như bị kìm hãm từ lâu, nay bùng nổi dậy như cơn lốc.

Chúng trợn mắt, nghiến răng và nhăn mặt một cách thô bỉ đến rợn người ! Miệng chúng quát tháo kêu la như thú dữ. Chúng say máu hơn say ruợu. Chúng đập, chúng đánh, chúng vả, chúng tát Ngài. Hai măr Ngài hoa lên, mặt Ngài sưng và bầm tím. Toàn thân Ngài rũ rượi dưới trận mưa roi. Hai tay Ngài run giật giữa những nút thừng xiết chặt bên cạnh cột đá. Nhưng đêm giá lạnh còn dài. Chúng muốn sưởi mình bằng cách vận động chân tay và những tâm tính quái ác, cũng như chúng muốn rút ngắn thời giờ bằng những trò chơi man rợ của chúng, bằng những khổ hình chúng được dịp tặng cho thân thể một nhà tiên tri. Chúng đổi lượt nhau đánh Ngài ở sau lưng, ở trên vai, ở đỉnh đầu, ở trước ngực. Chúng giật tóc và râu Chúa. Chúng xỉ mạ Ngài những câu rất thô hèn và chua chát. Chúng nghĩ được cách nào sỉ nhục Ngài, chúng liền thi hành cách ấy. Mấy đứa trong bọn chúng vừa nhổ nước bọt vào mặt Ngài vừa chế diễu. Mấy đứa khác nghĩ một cách lạ hơn; chúng lấy miếng giẻ rách dơ bẩn bịt mắt Ngài, vừa đánh vừa hỏi nhạo:

Hãy bói xem ai đánh ngươi ? Hay là Nào KiTô, nhà tiên tri thấu hết mọi sự, hãy nói cho chúng ta hay ai đánh ngươi đó ? Tóm lại chúng đánh đập và sĩ nhục Ngài đủ mọi cách theo đà ác tính của chúng, để thân thể yếu mềm của Ngài ta nát dưới sức nặng cực hình và tâm hồn Ngài no thỏa trong sầu tủi uất ức.

Đánh đập chán chúng mới để Chúa ngồi yên bên cột đá. Và Ngài đã đổi ra khác ! Toàn thân Ngài đầy những vết thương; chân tay thâm tím, lưng loang lổ vết máu lẫn với vết roi, từng giọt máu ở tai, ở mắt, ở mũi. Mặt Ngài sưng lên. Mấy mớ tóc do nước bọt hay do máu và mồ hôi dính bết lại. Mấy mớ tóc khác rũ xuống vô trật tự về phía trước, che khuất một phần hai bên má rồi nằm lẫn với đám râu thưa xờ xạc. Trước kia tôn nhan Ngài uy nghi cao cả, rạng ánh khiết tịnh lẫn mĩ miều của nhân tính và thần tính, song bây giờ ánh vinh quang ấy đã tắt mất. Nhưng thôi, vì muốn hiển vinh Đức Chúa Cha và yêu nhân loại. Ngài vui lòng chịu đựng cả, và còn ước mong cho chén đắng càng đầy thêm !

Chia sẻ Bài này:

Related posts