Chúa vẫn ở Caphanaum trụ sở Truyền giáo của Ngài, và tư thành đó, Ngài tìm hết cách mở rộng việc giảng đạo. Vì thế, hàng ngày Ngài đến các thành thị, các thôn trại và mọi ngã chung quanh biển hồ để giảng. Đến đâu Ngài cũng tuyên bố Nước Trời đã gần, chữa người bệnh tật và an ủi những kẻ gặp hoạn nạn rủi ro. Ngài cảm thương đám dân theo
Ngài, vì Ngài biết họ mệt nhọc, nhưng vẫn theo Ngài luôn. Ngài thương họ quá, vì Ngài nhận thấy họ giống như đàn chiên không người chăn, bơ vơ, khổ sở.
Thực ra, trong đời sống tôn giáo và luân lý họ cũng có những người hướng dẫn, là giới Đạo trưởng, nhóm Luật sĩ và Biệt Phái. Nhưng các ông này có thiết gì đến họ đâu. Các ông chỉ biết nói mà không làm, hay việc làm còn mâu thuẫn với lời nói nữa. Các ông chỉ cần học thuộc nhiều câu kinh kiệu đài các, trong các sách để phô diễn cho kêu vang chứ các ông không cần đưa ý nghĩa đích xác của những câu đó vào đời sống thực tại của dân chúng. Các ông giảng thuyết rất khô khan. Lời nói của các ông vang lên như hồi chiêng rồi im bặt, chứ không gây được ảnh hưởng. Thế mà các ông lại thích được dân gọi là Tôn sư hay bằng những danh hiệu có vẻ thông minh quan cách, cũng như các ông thích mặc áo có giải rộng và viền đẹp, thích được chào ở những chỗ công khai và ngồi trên trong các hội đồng. Nói tắt, các ông là những người chỉ có lý thuyết mà thiếu thực hành, chỉ biết ích kỷ và kiêu căng, giả nhân giả nghĩa cách khéo léo. Các ông đã đi ngược với nhiệm vụ của mình. Nên dân đã chán các ông lắm, nhưng cũng phải chịu vậy, chưa thể thoát được thế lực của các ông !
Trái lại, dân thấy Chúa thực đáng mến, Ngài có một đời sống trong sạch, xả kỷ, thiết thực, bình dân. Ngài ăn mặc đơn sơ, đi chân, không dùng xe ngựa. Ngài giảng những lời dễ hiểu, những lời có mãnh lực lạ, làm người nghe cảm phục, phấn khởi và mừng vui.
Lại thương yêu và nhân từ. Ngài chọn 12 người đơn sơ làm môn đệ giúp Ngài. Ngài chữa mọi bệnh tật và không ngại cho kẻ tội lỗi được tới gần Ngài. Trên đường truyền giáo, Ngài nhận cải thiện cả người thu thuế và những phụ nữ thiếu thanh danh. Đó là đặc điểm ngược hẳn với lối giả dối của Biệt Phái, hạng người giả bộ coi phụ nữ như rắn độc, và không thèm đi đường hay nói chuyện với họ. (Bên xứ Afghanistan, phụ nữ bị chế độ và chính quyền Teliban, coi rẻ rúng nhất. Và tước mất hết cả quyền lợi của người phụ nữ.)
Do đời sống thánh thiện, bình dân và nhân từ ấy, Ngài đã kéo cả một đám đông theo Ngài, trong số đó có mấy bà rất tận tụy giúp việc truyền đạo, như các bà Joanna, Suzana
Salome, Bà Joanna là phu nhân ông Chouza, một nhân viên cao cấp trong triều nhà vua
Antipas. Ngoài ra lại còn bà vợ ông Giêbêđê với mấy bà mà Ngài đã chữa khỏi bệnh và
bà Maria Madalena nữa. Các bà này không tiếc của tiếc công giúp Ngài.
Nhưng dù tận tụy và hy sinh đến đâu, Ngài cũng không làm hết việc được và cũng không thể đi khắp nơi như Ngài muốn. Càng ngày dân đến càng đông và vẫn còn nhiều nơi nhỏ ngay trong Galilêa, Ngài không thể đến. Thế mà thời gian giảng đạo của Ngài có ba năm thôi. Nên một ngày kia, nhân lúc dân đến đông, Ngài ngỏ ý cách xa xa với đoàn môn đệ rằng: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt rất ít ! Vậy các con nghĩ sao ?…
Các con hãy xin chủ ruộng sai thêm nhiều thợ gặt đến gặt cho Ngài. Thế là vài hôm sau Ngài hội họp môn đệ lại, khuyên nhủ và sai các ông, từng hai người một, đi giảng các nơi. Ngài dặn bảo các ông rằng:
-Ngày thầy sai các con đi, như chiên đi ở giữa sói rừng. Nên các con phải khôn ngoan như con rắn, nhưng cũng phải đơn sơ và chân thật như chim bồ câu. Các con cần phải được uy tín, nên Thầy ban cho các con quyền chữa mọi bệnh tật và trừ mọi quỷ ma.
Hiện giờ chưa cần đi các miền dân ngoại và các thôn xóm của xứ Samaria, các con hãy đến với những chiên lạc của dân Israel đã. Các con hãy đi mọi nơi mọi ngả và hãy tuyên giảng thật to khẩu hiệu Nước Chúa đã gần Các con hãy chữa mọi bệnh nhân, hãy trừ quỷ, hãy cho người hủi được sạch và phục sinh cho kẻ chết nữa.
Các con nhớ lời dặn tối hệ này: Các con phải triệt để vị tha. Vì thế, ơn các con đã được nhưng không, các con cũng hãy cho nhưng không. Là tông đồ của Nước Chúa, các con phải treo gương hãm mình và xả kỷ. Trên đường Truyền đạo, các con đưng lo dắt vào giây lưng hoặc vàng hoặc bạc hay thứ tiền gì để dự trữ. Các con cũng đừng mang bao, hay nhiều quần áo và giầy dép. Các con hãy lên đường đơn sơ, dù gậy cũng đừng cầm. Các con không phải lo đến đời sống và lương ăn, vì các con biết; người thợ đáng được của ăn nuôi mình. Vậy điều cốt yếu là các con phải lo cho có thứ lửa thánh, ấy là phải hy sinh, xả kỷ và nhiệt liệt giảng đạo thôi.
Thầy dặn các con: Khi vào một làng hay một thành nào, các con hãy tìm nơi liêm khiết mà trọ, và hãy ở đó cho đến khi đi làng khác. Các con hãy dùng những của ăn người ta dọn cho các con và đừng muốn được mời đi nhà này hay nhà nọ. Lúc đến nhà người ta, các con chào và chúc họ Bằng an cho nhà này Các con nhớ làm như thế, vì nếu nhà đó quả thực đáng lời chúc kia, thì hẳn sẽ được bình an như các con chúc; bằng không đáng thì lời chúc của các con lại trở về với các con. Lại nữa, ở những nơi các con được người ta đón nhận, các con hãy nhớ chữa mọi bệnh nhân và hãy tuyên giảng cho người ta rằng:
Phải chuẩn bị, Nước Chúa đã gần Trái lại nơi nào không muốn đón nhận các con, các con hãy bỏ nơi đó, đến chỗ công khai, phủi bụi khỏi giầy dép các con và nói cho dân ở đó rằng: Dù một chút bụi dính vào giầy dép, chúng ta cũng khong thèm mang theo.
Tuy nhiên các con cũng giảng cho họ biết Nước Trời đã gần. Thầy nói để các con hay:
Đến ngày chung thẩm, những làng hay những thành không đón nhận các con, sẽ bị phạt nặng hơn hai thành Sodoma và Gomorrha thuở trước.
Vậy các con hãy đi giảng mọi nơi, các con nhớ Thầy ủy đặc quyền cho các con. Nên ai đón nhận các con là đón nhận chính Thầy. Và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy. Cũng như ai nghe các con là nghe Thầy, và ai khinh các con là khinh Thầy, và ai khinh Thầy, đó là khinh chính Đấng đã sai Thầy.
Mệnh lệnh của Chúa dịu dàng đầy yêu thương, các môn đệ đều vui lòng bái nhận. Các ông chia nhau từng hai người một, sửa soạn lên đường Truyền giáo, các ông đi khắp mọi hướng và mọi ngả về xứ Galilêa. Đâu đâu các ông cũng tuyên giảng Tin Mừng và thúc dục dân cải thiện đời sống. Các ông cũng trừ quỷ và xức dầu chữa bệnh nhân. Công việc của các ông rất kết quả.
Mấy hôm sau các ông trở về trình lại Chúa những công việc các ông đã làm và những điều các ông đã nhân danh Ngài mà dạy. Ngài vui lắm, mừng khen các ông. Nhưng trong lúc đó có ông, như ông Gioan vì nhiệt thành hay vì cao hứng quá thưa với Chúa:
-Thưa Thầy, chúng con thấy có kẻ dám lấy tên Thầy mà trừ quỷ. Nhưng kẻ ấy không thuộc đàon thể chúng con, nên chúng con đã cấm nó.
Câu nói đó biểu thị lòng nhiệt thành, nhưng nó cũng ngầm chứa một tinh thần phân bì và ghen tỵ. Nên Chúa không chấp nhận và Ngài trả lời rằng:
-Không ! Không được ! Từ rầy trở đi, các con đừng cấm ai làm như thế nữa. Các con phải bình tĩnh và thản nhiên, vì chẳng ai có thể lấy tên Thầy làm phép lạ và đồng thời lại phản nghịch với Thầy. Trái lại các con nên nhớ, ai không phản nghịch với chúng ta, tức là người ấy lợi cho chúng ta.
Ý Chúa muốn nói: Sở dĩ người ta nhân danh Ngài mà làm được phép lạ, là vì người ta đã tin Ngài. Do vậy Chúa Cha mới ban cho người ta được quyền làm phép lạ. Người ta được quyền làm như thế, biết đâu một ngày kia chẳng có thể trở nên môn đệ Ngài. Vì thế có việc gì mà phải ghen. Chúa có nhiều việc, và có nhiều cách làm việc của Chúa.
Vậy điều cốt yếu là phải tin theo Chúa và làm việc cho Ngài theo phạm vi của phận sự thôi.